+ Xác định đúng tính chất, chức năng nhiệm vụ của HĐT. Theo tôi HĐT không phải là cơ quan quản lý của trường đại học mà là cơ quan quyền lực của trường đại học có thể hợp lý hơn. Bởi vì quản lý thuộc trách nhiệm của bộ máy chính quyền mà Hiệu trưởng là người đại diện theo pháp luật và chịu trách nhiệm trực tiếp quản lý điều hành, nó đóng vai trò giống như Chính phủ. HĐT sẽ quyết nghị những vấn đề lớn của Nhà trường và giám sát để thực hiện tốt quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội, nó đóng vai trò giống như Quốc hội.
Về chức năng và nhiệm vụ của HĐT, trong Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg đã chỉ ra 4 nhiệm vụ lớn của HĐT, nhưng không có phần nói về chức năng của HĐT, do đó rất khó trong việc xác định nhiệm vụ cụ thể và xác định ranh giới giữa quản lý của Hiệu trưởng và quản lý của HĐT. Theo tôi, chức năng của HĐT là: 1- Quyết định các chủ trương chính sách lớn của nhà trường, 2- Là cầu nối giữa chủ sở hữu và xã hội với nhà trường, và 3- Giám sát thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường.
+ Cần có quy định cụ thể nội dung và mức độ quản lý của HĐT trên các lĩnh vực: đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nhân sự cũng như mức độ và phạm vi giám sát. Trong đó, cần đưa đại diện doanh nghiệp tham gia các HĐT.
+ HĐT cần chú trọng hơn tới nâng cao trách nhiệm xã hội của trường. Trách nhiệm xã hội đó là trách nhiệm của nhà trường phải gắn và phục vụ xã hội, trong đó có các cựu sinh viên, phụ huynh và địa phương. Xã hội phải đầu tư, góp vốn xây dựng trường, góp phần đào tạo với nhà trường, giám sát các hoạt động của trường. Trường phải đào tạo theo nhu cầu xã hội, phải đóng góp cho phát triển địa phương, của cả nước. Nhà trường hiện nay chưa quan tâm nhiều đến trách nhiệm xã hội. Nhiều việc làm liên quan đến trách nhiệm xã hội, HĐT đảm nhận là phù hợp, ví dụ: Điều tra nhu cầu người học, vận động đầu tư và tài trợ từ nhà đầu tư và từ cựu sinh viên, lấy ý kiến đóng góp của cựu sinh viên, của các doanh nghiệp tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp với các chương trình đào tạo của trường, giám sát các quy chế tài chính, đào tạo, tuyển sinh của Nhà trường, đồng thời có kế hoạch làm việc với các tổ chức truyền thông về hoạt động của trường, hay báo cáo định kỳ với cơ quan cấp trên quản lý trường cũng như với Quốc hội.
Cần nhấn mạnh là, việc huy động tài chính từ các cựu sinh viên của trường cũng là một giải pháp thực tế. Hiện nay ở nước ta, nhiều trường đại học có những cựu sinh viên thành đạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trở thành những nhà doanh nghiệp lớn. Nếu nhà trường có cơ chế phù hợp thu hút họ tham gia vào hoạt động thì đây cũng là nguồn tài chính có tiềm năng huy động cho sự phát triển nhà trường.
- Cải tiến hoạt động của Quỹ phát triển tài năng sinh viên trong nhà trường. Vấn đề then chốt là cải tổ phương thức quản lý hiện nay, xóa bỏ tính hành chính hóa trong quản lý các Quỹ, đưa những người thật sự có tâm huyết, có thời gian và điều kiện tham gia ban quản lý Quỹ. Từ đó, cần mở rộng phạm vi hoạt động; mở rộng nguồn tài chính huy động từ xã hội, các doanh
nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài; mở rộng đối tượng thụ hưởng, không chỉ sinh viên chính quy mà còn cho cả sinh viên tại chức, bằng hai, hoàn chỉnh kiến thức, sinh viên sau đại học (cao học và nghiên cứu sinh); mở rộng lĩnh vực tài trợ, không chỉ tài trợ cho người học giỏi mà cần tại trợ cho sinh viên có nhiều thành tích trong nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, tăng cường khai thác các nguồn vốn ngoài nước. Nhà nước tạo cơ sở pháp lý cho các trường đại học khai thác nguồn ngoài nước từ hoạt động hợp tác quốc tế bằng nhiều hình thức khác nhau: hợp tác nghiên cứu, đào tạo song phương, đa phương. Muốn vậy, cần thực hiện những giải pháp như:
- Nâng cao năng lực hợp tác quốc tế của đội ngũ cán bộ KH & KH trong các trường đại học. Hiện nay, ở nhiều trường đại học đang gặp khó khăn trong việc hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Vấn đề là ở chỗ các nhà khoa học đầu ngành khó khăn về ngoại ngữ trong khi số đông cán bộ khoa học trẻ, có trình độ về ngoại ngữ nhưng kinh nghiệm và trình độ khoa học còn hạn chế. Vì thế, để tăng cường năng lực hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, một mặt các trường đại học cần có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ, bổ sung những hạn chế của đội ngũ khoa học theo từng lứa tuổi. mặt khác, cần có sự kết hợp giữa hai độ tuổi này để khai thác thế mạnh và khắc phục yếu điểm của mỗi độ tuổi.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập các trường đại học, tổ chức KH & CN tại Việt Nam dưới hình thức hợp tác liên kết giữa các trường đại học Việt Nam và nước ngoài, các tổ chức đào tạo và KH & CN 100% vốn nước ngoài.
- Khuyến khích và hỗ trợ các nhà khoa học thực hiện các dự án nghiên cứu dưới hình thức hợp tác nghiên cứu KH&CN theo Nghị định thư với các nước, hợp tác song phương, đa phương, tham gia các chương trình, đề tài dự án của các tổ chức quốc tế như WB, ADB, JB, JICA, UNDP,…
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng đào tạo – cơ sở để tăng các khoản thu ngoài NSNN
Thứ nhất, nếu Đảng ta đã luôn luôn nhấn mạnh quan điểm và coi “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực của quá trình phát triển”, thì công việc phải làm đầu tiên của Chính phủ, của Bộ giáo dục và cơ quan liên ngành là hoàn thiện và xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, các chế tài liên quan tới quản lý giáo dục, đặc biệt là giáo dục Đại học một cách chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất. Đưa ra những trách nhiệm cụ thể đối với từng cấp quản lý, người thực hiện: giáo viên cần chịu trách nhiệm trước ai, nếu làm sai? hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước Bộ, cơ quan chủ quản như thế nào? Bộ Giáo dục và đào tạo chịu trách nhiệm như thế nào trước Quốc hội, trước nhân dân?,...Cần xây dựng quy trình kiểm tra, thanh tra, kiểm soát chặt chẽ trên tất cả các mặt hình thành nên chất lượng đào tạo, cần phải thực hiện nghiêm minh, công khai. Sau mỗi thời gian thực hiện nhất định cần có báo cáo rộng rãi,...Cần phân công rõ ràng các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và
Đào tạo với các bộ ngành khác, việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục hiện tại còn chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất. Việc tách rời quản lý nhà nước về chuyên môn với quản lý nhân sự, tài chính đã làm giảm tính thống nhất trong chỉ đạo, điều hành đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân và làm cho bộ máy quản lý giáo dục trở nên cồng kềnh, nặng nề. Năng lực của các cơ quan quản lý giáo dục chưa đáp ứng được nhiệm vụ quản lý trong tình hình mới.
Việc xây dựng hệ thống các văn bản luật và dưới luật theo cá nhân tôi Nhà nước nên là người “cầm lái chứ không nên bơi chèo”. Chỉ nên là người định hướng và có các công cụ chế tài nghiêm minh đi sau và quan trọng nhất là khâu kiểm tra giám sát thường xuyên để đưa ra biện pháp hiệu chỉnh kịp thời, không để cho sự phản ứng tiêu cực mang tính dây chuyền, gây mất lòng tin ở những người làm việc nghiêm túc.
Thứ hai, yếu tố rất quan trọng tạo nên chất lượng giáo dục Đại học là chương trình đào tạo, cần có một khung chương trình chuẩn cho đào tạo giáo dục Đại học, không phải là sự chắp vá, không phải là đổi mới có kế thừa mà theo tôi là thay đổi. Khi xây dựng khung chương trình bắt buộc phải cho người trong cuộc tham dự (bao gồm người giảng dạy, người học, người sử dụng sản phẩm đào tạo) họ mới là những người trực tiếp tiếp cận, họ thấy được những mặt tích cực, hạn chế, khung chương trình đó có thực sự mang lại hiệu quả thực tế, đáp ứng được yêu cầu của xã hội hay không? Có hội nhập hay không? Khung chương trình mà hiện nay các trường Đại học đang áp dụng vẫn bị áp đặt từ trên Bộ giáo dục xuống, vẫn phải đảm bảo một số môn học cơ bản nhất định . Tuy nhiên, một số môn học không còn phù hợp với tiến trình phát triển, và đòi hỏi của xã hội, đôi khi các chương trình học lấy từ trên Internet hay các tài liệu ở nước ngoài không hoàn toàn thích hợp thực tế của một nước đang phát triển như ở Việt Nam. Đặc biệt, việc xây dựng chương trình cần chú ý không thể đem một chương trình học nào đó về áp dụng đại trà trong các trường đại học Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được bàn trong rất nhiều hội thảo, nhiều nghiên cứu. Nhưng theo tôi, đó là cách làm. Kinh phí cho đào tạo giáo dục mỗi năm đều tăng trưởng, (thể hiện qua bảng dữ liệu sau)
Bảng 3.1: Dự toán NSNN và quyết toán NSNN cho giáo dục
Đơn vị: tỷ đồng
Dự toán NSNN | Quyết toán NSNN | So sánh QT/DT (%) | |||||||
NSNN | NSTW | NSĐP | NSNN | NSTW | NSĐP | NSNN | NSTW | NSĐP | |
1=2+3 | 2 | 3 | 4=5+6 | 5 | 6 | 7=4/1 | 8=5/2 | 9=6/3 | |
2005 | 26.575 | 4.002 | 22.573 | 28.611 | 4.023 | 24.588 | 107,7 | 100,5 | 108,9 |
2006 | 36.367 | 4.933 | 31.434 | 37.332 | 4.748 | 32.584 | 102,7 | 96,2 | 103,7 |
2007 | 47.280 | 6.978 | 40.302 | 43.997 | 6.070 | 37.927 | 93,1 | 87,0 | 94,1 |
2008 | 54.051 | 6.823 | 47.228 | 53.560 | 6.299 | 47.261 | 99,1 | 92,3 | 100,1 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Điểm Quản Lý Tài Chính Các Trường Đại Học Công Lập Việt Nam
- Mức Độ Tác Động Đến Khả Năng Tự Chủ Của Các Nhân Tố
- Hoàn Thiện Cơ Chế Phân Bổ Dự Toán Chi Nsnn Cho Giáo Dục Đại Học
- Quản lý tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam - 26
- Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo, (2009-2010), Ba Công Khai Của Các Trường Đại Học Công Lập,
- Tổng Hợp 3 Công Khai Các Trường Đại Học Công Lập Năm Học 2009-2010, 2010-2011
Xem toàn bộ 246 trang tài liệu này.
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Tài chính
Mặc dù, năm 2011 là năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách (2011-2013) thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính theo NĐ 43/2006-CP đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, song tổng dự toán chi ngân sách năm 2011 là 5.081,6 tỷ đồng, tăng 2,9% so với năm 2010.
Chi thường xuyên đào tạo học sinh, sinh viên trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng đại học và sau đại học là: 1.320,69 tỷ đồng. Như vậy, cùng với mức hỗ trợ ngân sách nhà nước cấp và mức thu học phí chính quy được theo lộ trình quy định tại Nghị định 49/2010/NĐ-CP thì chi phí đào tạo bình quân cho 1 HS, SV năm 2011 đã được nâng lên so với năm 2010, cụ thể:
Bảng 3.2: Mức chi NSNN cho giáo dục đại học năm 2011
Số chi từ NSNN trong năm 2011 | Mức tăng so với năm 2010 | |
Đào tạo tiến sỹ | 10,29 - 12,04 triệu đồng/hv/năm | tăng 52%. |
Đào tạo thạc sỹ | 7,13 - 8,18 triệu đồng/hv/năm | tăng 34%. |
Đào tạo đại học | 5,83 - 6,53 triệu đồng/sv/năm, | tăng 19%. |
Đào tạo cao đẳng | 5,20 - 5,76 triệu đồng/sv/năm | tăng 17%. |
Đào tạo TCCN: | 3,41 - 3,90 triệu đồng/sv/năm | tăng 30% |
Nguồn: Bộ giáo dục và đào tạo, Trang tin về giáo dục (http://giaoducvietnam.net) Nếu mức trả thù lao thích đáng, có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ thì hiện tượng chất lượng đào tạo kém, chương trình chậm đổi mới, không phù hợp với tiến trình phát triển,.... mới nhanh chóng được khắc phục. Từ trước tới nay, cái gì chúng ta cũng làm nửa vời, ban đầu thì hô hào, phát động rùm beng,... nhưng sau thời gian thực hiện thì có thể là không khả thi, không nghiên cứu kỹ, không có sự kiểm tra, giám sát, không có chế tài xử phạt nghiêm minh, lúc nào cũng là “nương nhẹ tay”, “tạo cơ hội” để sửa chữa. Nếu không thay đổi cách làm, theo tôi chất lượng giáo dục Đại học nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung không
được cải thiện.
Thứ ba, đi song song với khung chương trình theo tôi là hệ thống giáo trình bài giảng mang tính tiên tiến, chuẩn hóa có hội nhập. Đây là minh chứng thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng giáo dục. Vì hệ thống giáo trình bài giảng là cơ sở khoa học là chất xám trí tuệ của người viết, người biên soạn là tài liệu tham khảo của người học. Nếu không chuẩn hóa thì sẽ không có căn cứ để so sánh. Nếu chúng ta không viết được chúng ta có thể mua sách của các nước có trình độ tiên tiến chuẩn hóa về đào tạo, những trường có uy tín trên thế giới, (dựa trên chương
trình học tập mà đã được xây dựng). Hệ thống giáo trình bài giảng cũng là một thang đo, là một tiêu chí thể hiện thương hiệu của một trường.
Thứ tư, Bộ giáo dục nên xây dựng những tiêu chí mang tính công khai rộng rãi về việc đánh giá trường Đại học đạt chuẩn. (theo tôi những tiêu chí này cũng là tài liệu được đăng tải trên cuốn “Những điều cần biết” phục vụ cho thí sinh dự thi vào các trường Cao đẳng, Đại học) Chuẩn về chương trình tiên tiến, chuẩn về khối lượng giảng viên, trình độ giảng viên, người quản lý, chuẩn về cơ sở vật chất, chuẩn về sự đánh giá của tổ chức, đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo sau khi ra trường,.. Bởi, tất cả những yếu tố này hình thành nên nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.
Thứ năm, cần có quy định rõ ràng về phân loại người học trong các trường đại học. Có nghĩa là cần xây dựng quy chế tuyển đầu vào của các trường. Sinh viên học đại học không thể có điểm chuẩn dưới điểm sàn mà Bộ quản lý về chất lượng đưa ra (không thể học để tình trạng 12 điểm là thủ khoa, Ví dụ trường hợp thủ khoa của trường Đại học Hà Hoa Tiên năm 2011). Bởi vì, hiện nay kiến thức ra đề thi là kiến thức cơ bản, do đó, nếu anh không đạt ngưỡng chuẩn thì chuyển sang học nghề, đây cũng là một trong những cách để tạo ra cơ cấu ngành nghề hợp lý trong nền kinh tế trong tương lai, phải thẳng thắn, dứt khoát không có trường hợp xin lấy thêm cho đủ chỉ tiêu mà Bộ phân công nhiệm vụ đào tạo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra sau đây có lẽ không phải là mối lo ngại của bản thân cá nhân “phải chăng việc cho phép thành lập các trường quá ồ ạt dẫn đến thành lập rồi phải tuyển sinh, tuyển sinh nhưng số người đăng ký thi tuyển đầu vào quá ít thì chất lượng như thế nào vẫn phải tuyển vào cho đủ chỉ tiêu và giảm thiệt hai cho trường”
Theo tôi, để làm được tất cả những vấn đề trên đó là việc “cộng hưởng” từ nhiều nhân tố khác: đó là sự chuẩn hóa về chất lượng,về thang đo của chất lượng giáo dục, đó là sự tuyển dụng khắt khe của các cơ quan tuyển dụng, của những đơn vị sử dụng sản phẩm giáo dục, đó là sự thay đổi tư duy của người lãnh đạo các cấp liên quan đến quản lý giáo dục, đó là đòi hỏi cần có một mức kinh phí phù hợp cho sự cải tổ mới hình thành nên việc thay đổi của quản lý giáo dục Đại học,...
Thứ sáu, Xây dựng và nghiêm chỉnh thực hiện chế độ kiểm định chất lượng đào tạo đối với các trường đại học, thực hiện công khai hóa về chất lượng giáo dục.
Việc tăng quy mô cũng như ngày càng đa dạng hóa các chương trình đào tạo nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập của người dân, đồng thời đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cao phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế nếu không có sự kiểm tra, kiểm soát sẽ không đạt được mục tiêu của nó, mà có thể gây ra các tác động tiêu cực. Chính vì vậy, song song với việc phát triển quy mô giáo dục đào tạo cần thiết phải xây dựng một hệ thống kiểm định và thực thi hoạt động kiểm định chất lượng. Kiểm định là một công cụ đã được sử dụng ở rất
nhiều quốc gia trên thế giới để đảm bảo chất lượng đào tạo. Kiểm định chất lượng là một quá trình thông qua đó chất lượng của một tổ chức, một chương trình được đánh giá so với các chuẩn mức đã được quy định. Thông qua quá trình này, nhiệm vụ của các cơ sở đào tạo cũng như chất lượng đào tạo sẽ được cải thiện
3.2.2.3. Ứng dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính gắn với kết quả đầu ra trong thực hiện vai trò của trường đại học công lập
Đứng trên giác độ là người quản lý tài chính, các trường cũng có thể tham khảo hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính được trình bày ở chương 1. Trên cơ sở đó giúp các trường nhận biết cần định hướng phát triển trường theo mục tiêu tập trung, đầu tư cho đào tạo, hay tập trung, đầu tư cho nghiên cứu. Bởi bằng việc tính toán các chỉ tiêu đó, cho biết một đồng chi cho chương trình đào tạo và NCKH, thì cái nào cho kết quả cao hơn trong việc hướng đến bền vững tài chính. Quan điểm của đa số các trường đại học công lập Việt Nam hiện nay cho rằng, chi cho đào tạo mới tạo ra thu nhập chủ yếu, tạo ra việc làm cho cán bộ giảng viên.Tuy nhiên, thực tế lại cho rằng thu nhập ròng từ đào tạo là không cao, thể hiện mức tăng lương cho giảng viên qua các năm là rất thấp. Cần thay đổi tư duy trong quản lý liên quan đến lĩnh vực này, bởi, chi cho NCKH thích đáng tạo ra những sản phẩm, công trình bán cho các đơn vị, các DN từ đó mới tạo ra nguồn thu trở lại cho trường.
Hơn nữa, ứng dụng các chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính các trường đại học công lập giúp các trường đo lường, so sánh tính bền vững giữa các chương trình đào tạo với nhau, giúp có căn cứ để phân bổ kinh phí cho các chương trình sau.
3.2.2.4. Xây dựng mục tiêu hướng tới trường đại học công đẳng cấp quốc tế
Trước thực trạng hệ thống giáo dục đại học yếu kém cũng như yêu cầu đổi mới để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập giáo dục đại học và kinh tế quốc tế, rõ ràng các trường đại học Việt Nam cần phát triển ngang tầm các trường đại học trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia giáo dục thì việc đổi mới cả hệ thống các trường đại học cùng một lúc khó khả thi. Vì vậy, cần chọn điểm đột phá, lối đi "tắt", xây dựng một nhà trường tiên tiến, theo chuẩn mực và đẳng cấp quốc tế, làm hạt nhân phát triển ra toàn hệ thống. Đây cũng là một nhiệm vụ được khẳng định trong Nghị quyết 14/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
Việc xây dựng một trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Việt Nam trong thời điểm hiện nay là cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, xét về hoàn cảnh chủ quan và khách quan, cần có bước đi và lộ trình thích hợp. Ngay cả việc chọn cách làm như thế nào cũng là điều cần thiết, phải bàn tính kỹ khi chúng ta chưa từng có khái niệm và những tiêu chí cụ thể về mô hình kiểu trường có thương
hiệu như thế này. Bên cạnh đó, một số vấn đề cần cân nhắc là tìm nguồn kinh phí không nhỏ để
xây dựng và cơ chế quản lý nhà trường như thế nào cho phù hợp.
Theo các nhà quản lý giáo dục và đào tạo trong nước, có hai cách hình thành trường đại học
đẳng cấp quốc tế.
Một là, trên cơ sở một trường đại học đã có
Hai là, xây dựng một trường đại học mới hoàn toàn
Cách thứ nhất có ưu điểm là một số cơ sở ban đầu của trường đã có và chỉ cần có chính sách phù hợp cung cấp tài chính. Tuy nhiên, cách này buộc phải có cơ chế chính sách đủ mạnh để vượt qua trở ngại và rào cản của sự trì trệ, của thói quen và nề nếp cũ như sức ỳ mang tính hệ thống đã tồn tại duy trì khá lâu trong mỗi nhà trường. Cách xây dựng một trường hoàn toàn mới có lợi thế rõ rệt vì thực hiện được các ý tưởng ngay từ đầu. Mặt khác không mất nhiều công sức và tiền của trong việc nâng cấp, chỉnh sửa cơ sở vật chất kỹ thuật vốn có, trong việc cải tổ những nề nếp, thói quen và những trì trệ của bộ máy kiểu cũ. Cũng theo cách này, mặc dù kinh phí đầu tư ban đầu cao nhưng hiệu quả cuối cùng tốt hơn nhiều so với cách thứ nhất trong việc tạo ra một môi trường mới cả về cơ sở vật chất cũng như hoạt động học thuật.
3.2.2.5. Tăng cường quản lý tài sản
Tài sản trong các trường đại học công lập bao gồm: diện tích đất sử dụng, hệ thống phòng học giảng đường, phòng làm việc, hệ thống trang thiết bị máy móc phục vụ cho hoạt động giảng dạy và công tác quản lý, hệ thống thư viện thông tin điện tử, hệ thống giáo trình bài giảng, công trình nghiên cứu khoa học, bằng phát minh sáng chế. Cần có quy trình quản lý và giám sát, kiểm tra quá trình tuân thủ quy trình đó. Cần phân cấp, phân quyền, có chế tài gắn với quá trình quản lý tài sản. Đồng thời cụ thể hóa bằng văn bản, đưa lên trang web của trường và những phương tiện thông tin khác để thấy rõ được tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó tới việc nâng cao chất lượng đào tạo
3.2.2.6. Hoàn thiện bộ máy quản lý tài chính, thông tin, quy trình quản lý tài chính khoa học
Xây dựng tiêu chuẩn để lựa chọn được những người có đủ năng lực, trình độ tham gia vào bộ máy quản lý tài chính, ví dụ: trình độ chuyên môn, tổ chức đào tạo ra người đó, khả năng ứng dụng công nghệ tin học, khả năng xử lý vấn đề,…Vì xuyên suốt nội dung của luận án, tác giả cho rằng quản lý tài chính là nhân tố quan trọng nhất trong các hoạt động khác của đơn vị, nó quyết định tới mọi hoạt động khác trong đơn vị.
Công khai hóa thông tin liên quan đến hoạt động tài chính được duy trì là điều kiện tốt để thu hút các nguồn khác ngoài nguồn học phí: nhận hỗ trợ từ các tổ chức xã hội, nhận được các hợp
đồng đào tạo lớn trong và ngoài nước,…. Khi thực hiện, phải thực hiện thường xuyên tránh tình trạng “đầu voi đuôi chuột” sẽ khó tạo lòng tin đến chủ thể liên quan.
Xây dựng quy trình quản lý tài chính chuẩn hóa và công khai quy trình này để các đơn vị phối hợp thực hiện.
3.2.2.7. Nâng cao chất lượng công tác phục vụ đào tạo, công khai hóa chất lượng giáo dục đào tạo
Hầu hết các trường đại học công lập đã xây dựng được các hoạt động: Thanh tra, Thư viện, Ký túc xá Sinh viên, Y tế và các trung tâm phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các trường như tạp chí, các trung tâm nghiên cứu, xưởng in… nhằm tăng cường chất lượng công tác phục vụ đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Trong thời gian tới, các trường đại học công lập cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động. Đặc biệt các trường cần tăng cường cơ sở cật chất của thư viện để đáp ứng tốt các nhu cầu nghiên cứu của cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên, tiếp tục hoàn thiện xây dựng thư viện hiện đại trong tương lai. Hơn nữa, cần công khai hóa, quy định cụ thể thời gian báo cáo thông tin để các đơn vị khác và cán bộ giảng viên Nhà trường nắm được. Các trung tâm, dịch vụ-sản xuất trong các trường như các trung tâm tư vấn, dịch vụ giữ xe... ngoài việc thực hiện tốt nhất các chức năng nhiệm vụ của nhà trường giao cho còn phải nâng cao hiệu quả hoạt động để đóng góp cho trường ngày càng nhiều hơn.
3.2.2.8. Thành lập đơn vị nghiên cứu, hỗ trợ chính sách quản lý tài chính nội bộ trong trường
đại học, cao đẳng
So với bộ máy tổ chức của các trường đại học quốc tế, sơ đồ cấu trúc của các bộ máy chức năng trong trường đại học, cao đẳng của Việt Nam có một số khác biệt. Có hai vấn đề liên quan đến các cấu trúc bảo đảm chất lượng đào tạo đại học và nghiên cứu, dự báo chính sách:
Thứ nhất, trong sơ đồ cơ cấu tổ chức của các trường đại học, chưa có một bộ phận nào chuyên trách thực hiện chức năng tư vấn, dự báo, thiết kế, triển khai chính sách đào tạo. Khi một yêu cầu về nghiên cứu, dự báo, lập kế hoạch chính sách, hoặc thống kê, hoặc đánh giá chất lượng đào tạo, hay nghiên cứu… được nêu ra, yêu cầu đó thường được chia nhỏ thành các công việc riêng của các bộ phận. Việc tổng hợp nhanh các ý kiến được trao cho một, hai cá nhân, trong một thời gian gấp rút. Sau khi hoàn thành, công việc trên chấm dứt. Khi xuất hiện một thông báo mới yêu cầu báo cáo, thống kê, thì quá trình trên lại bắt đầu. Gần đây, khi có một số dự án hoặc đề tài nghiên cứu từ bên ngoài đặt yêu cầu nghiên cứu, thống kê, với một số kinh phí nhất định, các cơ sở đại học, cao đẳng lại tham gia cũng với cách làm trên nhưng hiệu quả thì chưa có. Như vậy, có thể thấy, công tác nghiên cứu, thiết kế, đánh giá, dự báo chính sách đào tạo ở đại học, cao đẳng Việt Nam còn chưa được tổ chức một