Quản lý tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam - 26


cách có hệ thống, chưa có một cấu trúc với chức năng chuyên biệt, làm nhiệm vụ đảm bảo chất lượng đào tạo, dự báo chính sách, xây dựng các kế hoạch và chương trình mang tính hệ thống, khoa học và chuyên nghiệp, tiến hành tư vấn nội bộ.

Thứ hai, theo tiêu chuẩn hóa mang tính toàn cầu và chuyên môn hóa đã trở thành thông lệ trong nghiên cứu chính sách cũng như nhiều lĩnh vực khác, theo quan điểm hệ thống, việc chắp nối cơ học các mảng số liệu từ các đơn vị khác nhau, bởi các bộ phận thiếu chuyên môn về chính sách đào tạo, sẽ dẫn đến những sai lệch hệ thống trong nhận định, phân tích, dự báo chính sách.

Một hạn chế hiện nay, có rất nhiều dự án, chương trình nghiên cứu, cũng như chỉ đạo của các cấp quản lý vĩ mô cũng chưa được chuẩn bị một cách đúng mức trong việc tư vấn cho các cơ sở đào tạo cách triển khai các nội dung bằng việc xây dựng các cấu trúc chức năng được thiết chế hóa như những công cụ chính sách. Ngay cả các công trình nghiên cứu về đảm bảo chất lượng đào tạo cũng chỉ tập trung trình bày các chuẩn chất lượng để đánh giá, mà quên rằng để thực hiện, phải có một bộ máy được tổ chức và cấu trúc một cách chuyên nghiệp và có hệ thống.

Như vậy, để bảo đảm chất lượng giáo dục đại học, cần xây dựng các chuẩn để có thể đánh giá khách quan, hòa nhập vào giáo dục quốc tế. Sau khi Phòng Kiểm định chất lượng đào tạo, Cục Khảo thí và Kiểm định Chất lượng đã được thành lập ở Việt Nam và có thể trong tương lai là một hệ thống các tổ chức kiểm định độc lập, chúng ta vẫn cần phải xem xét việc xây dựng các thiết chế và cấu trúc đảm bảo chất lượng ở trong chính cơ sở đại học. Việc thành lập các đơn vị nghiên cứu và triển khai chính sách giáo dục đại học sẽ giúp hình thành một mạng lưới, vừa đảm bảo tốt công tác thông tin, thống kê giáo dục, vừa là một công cụ chính sách vi mô giúp các trường đương đầu tốt với các thách thức, tự tin trong việc đáp ứng tốt các nhu cầu về năng lực chuyên môn cần đào tạo trên thị trường lao động.

- Nội dung nghiên cứu chính sách nội bộ

Trong cơ sở đào tạo đại học, tổ chức nghiên cứu chính sách nội bộ là bộ phận tư vấn chiến lược quan trọng cho Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu. Tổ chức này không hề tạo ra mâu thuẫn về mặt chức năng với các hội đồng tư vấn của Hiệu trưởng, cũng như các tổ chức, trung tâm, chương trình khác nghiên cứu về giáo dục. Các hội đồng khoa học và đào tạo, cũng như các hội đồng và tổ chức khác tiếp tục hoạt động, đưa ra các ý kiến tư vấn, song chính tổ chức nghiên cứu chính sách nội bộ sẽ là bộ phận tổng kết, phân tích các ý kiến đó, ứng xử với các ý kiến đó như một nguồn tư vấn chính sách quan trọng. Điều khác biệt là trong khi các Hội đồng khoa học thỉnh thoảng mới được triệu tập và mặc dù thường trực hội đồng có thể làm việc ở mức độ


thường xuyên hơn so với Hội đồng, Đơn vị nghiên cứu chính sách nội bộ là một cấu trúc hoạt động thường trực, chuyên môn hóa về các mặt nghiên cứu, đánh giá, phân tích, xây dựng các chính sách và tư vấn chiến lược, hỗ trợ các quyết định chính sách, chiến lược và kế hoạch của Hiệu trưởng.

Các đơn vị nghiên cứu chính sách nội bộ đặt ở các cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng khác nhau, khi được kết nối với nhau, tạo thành một mạng lưới các tổ chức chính sách ở cấp vi mô và tương tác kỹ thuật với nhau cũng như với các cấp chính sách vĩ mô và trung mô, đẩy nhanh các quá trình tích hợp chính sách theo các tiếp cận dưới lên, trên xuống… và tăng cường độ tin cậy cũng như việc thực hiện các chính sách.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 246 trang tài liệu này.

- Các lĩnh vực chính sách vi mô đại học

Một trong những căn cứ để cơ sở giáo dục đại học có thể thiết lập hệ thống chính sách là các nhu cầu của xã hội được thể hiện qua các nhu cầu và kỳ vọng của các chủ thể, đối tác có liên quan đến cơ sở đào tạo, bao gồm: Sinh viên, học viên, gia đình của họ; Giáo chức, cán bộ, nhân viên trong nội bộ cơ sở đào tạo; Người lãnh đạo cơ sở đào tạo; Các cơ quan quản lý giáo dục các cấp; Nhà chức trách địa phương, vùng và quốc gia; Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế, xã hội; Giới chuyên môn, kỹ thuật; Giới dịch vụ; Các đối tác đào tạo đại học.

Quản lý tài chính các trường Đại học công lập ở Việt Nam - 26

Căn cứ vào các nhu cầu và quan hệ nhu cầu, chủ thể, có bao nhiêu nhóm nhu cầu có thể xây dựng bấy nhiêu nhóm mục tiêu để định hướng đáp ứng. Các định hướng này được tổ chức lại thành các mục tiêu với cấp độ ưu tiên khác nhau, phân loại thành các mục tiêu theo trục thời gian: trước mắt, trung hạn, dài hạn, đồng thời, xuyên suốt v.v… trong đó có các mục tiêu chiến lược.

Một số tổng kết ngắn gọn các lĩnh vực chính sách trong giáo dục đại học đã được đưa ra như sau:

+ Chương trình đào tạo; Quản lý sinh viên; Phát triển đội ngũ và nguồn nhân lực; Phương tiện, thiết bị, công nghệ; Tài chính; Quan hệ với bên ngoài

Phân các lĩnh vực chính sách theo tiếp cận công nghệ đào tạo, ta có các lĩnh vực sau :

Các chính sách về quản lý phần con người (các chủ thể đào tạo nội bộ của cơ sở đào tạo); Các chính sách về quản lý phần kỹ thuật, công nghệ; Các chính sách về quản lý phần tổ chức, thiết chế (phần tổ chức); Các chính sách về quản lý nguồn tài lực (phần tài chính); Các chính sách về quản lý phần thông tin; Các chính sách về quản lý tương tác với môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị... (phần môi trường).

+ Xác định và dự báo vấn đề chính sách : tìm hiểu, lựa chọn vấn đề (đánh giá nhu cầu, tập hợp, phân tích, xử lý số liệu, xây dựng các kênh thông tin bền vững, xây dựng các nguồn thu


thập, điều tra thông tin thường xuyên); Xây dựng chính sách: xác định các mục tiêu chính sách, sắp xếp các ưu tiên, đề xuất và lựa chọn các phương án chính sách, công cụ và giải pháp; Lên kế hoạch triển khai chính sách: tư vấn việc thực hiện; Tư vấn triển khai chính sách: với sự tham gia triển khai của các bộ phận chuyên môn và giúp việc quản lý khác cho Ban Giám hiệu trong trường đại học; Đánh giá các tác động chính sách; Xác định vòng đời chính sách: kết thúc để chuyển hướng chính sách mới hoặc điều chỉnh thích nghi.

- Một vài mô hình tham khảo

Đơn vị nghiên cứu chính sách cũng có những giới hạn riêng trong phạm vi hoạt động. Tổ chức này không thể đảm nhiệm tất cả các công việc và chức năng. Các giới hạn về nguồn nhân lực, thông tin, tài chính, vị thế, cơ sở hạ tầng không cho phép thực hiện điều này. Sản phẩm của nghiên cứu được thể hiện qua các báo cáo đánh giá và tư vấn chính sách. Người tư vấn lại không phải là người trực tiếp thực hiện trong nhiều trường hợp. Mặt khác, các lĩnh vực của thực hiện chính sách lại rất rộng, phong phú và thường đan xen lẫn nhau.

Trước tiên, các nhóm, tổ công tác nghiên cứu-tư vấn chính sách làm nòng cốt cho đơn vị nghiên cứu chính sách nội bộ về giáo dục đại học cần được lập ngay tại các nơi có khả năng. Trong quá trình lập, các đơn vị cần tránh cách làm theo lối hành chính hóa, nhiều ban bệ, quá nhiều cuộc họp hội đồng nhưng việc triển khai không được thường xuyên hoặc thiếu sự lựa chọn ưu tiên trong chương trình và kế hoạch hoạt động. Đơn vị nghiên cứu chính sách sau khi được thành lập có thể tiếp tục sử dụng tiếp cận dự án và chương trình (tiếp cận động), kết hợp với tiếp cận ổn định tổ chức chức năng (tiếp cận tĩnh), từ đó lập ra các tổ công tác và chuyên đề. Công tác cộng tác viên, phối hợp với cán bộ của các đơn vị chức năng, giúp việc khác trong trường cũng cần được lưu ý. Đây cũng là cách để mở rộng, tăng cường đội ngũ làm chính sách sau này của một đơn vị nghiên cứu chính sách nội bộ.

Ở một số đại học quốc tế, các chính sách được phân loại, với tiếp cận tổ chức tĩnh và với nguồn lực và các điều kiện cho phép, người ta thiết chế hóa ngay các chức năng chính sách: ví dụ, thành lập bộ phận đảm bảo chất lượng như một bộ phận tự chủ trong trường, trực tiếp trợ giúp khâu quản lý chất lượng và các quyết định về chính sách đào tạo, nghiên cứu của hiệu trưởng, người đứng đầu cơ sở đào tạo hoặc hội đồng quản trị. Ở Đức hoặc Hoa Kỳ, bên ngoài các chức vụ và vị trí phó hiệu trưởng truyền thống và thông thường, tùy theo nhu cầu mới, người ta có thể cử ra các phó hiệu trưởng phụ trách các lĩnh vực chính sách mới (tất nhiên điều này chỉ là một tham khảo vì mỗi hệ thống có đặc thù riêng về quy định tổ chức, điều lệ hoạt động .v.v…). Tại Pháp, người ta có thể cử một phó hiệu trưởng chuyên trách về hỗ trợ quá trình gia nhập về phương diện chuyên môn và xã hội của sinh viên.


Thực chất đây là khâu cầu nối đào tạo với việc làm. Tại một số nơi, phó hiệu trưởng có thể được cử phụ trách ứng dụng các công nghệ sư phạm và quản lý mới hoặc phụ trách công tác thông tin, định hướng, hướng nghiệp cho sinh viên. Nhiều đại học ở Châu Âu và Bắc Mỹ thiết lập các cấu trúc nghiên cứu và quan trắc đời sống sinh viên trên các phương diện: gia nhập học đường, gia nhập chuyên môn và kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng việc đảm bảo chất lượng cuộc sống sinh viên.

Định hướng - hướng nghiệp đại học cũng là một lĩnh vực chính sách quan trọng của giáo dục

đại học, đáp ứng một nhu cầu xã hội rất lớn về lựa chọn ngành nghề đào tạo đại học, cao đẳng.

Việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học được coi là một trong các chức năng đảm bảo chất lượng theo đuổi toàn bộ quá trình đào tạo của học viên từ đầu vào, trong quá trình đào tạo đến đầu ra. Mặc dù đã có các dự án khởi động, hệ thống trường đại học ở Việt Nam vẫn chưa xây dựng được mạng lưới các trung tâm thông tin- hướng nghiệp với đội ngũ cán bộ làm việc có tính chuyên nghiệp và thực hiện các công việc chuyên môn thường xuyên.

Cũng như vậy, việc nghiên cứu các thông tin đầu ra để điều chỉnh chính sách, các chương trình đào tạo theo hướng đảm bảo chất lượng tổng thể còn chưa được đồng bộ thực hiện, nhiều nơi, người ta hiểu lầm lĩnh vực nghiên cứu chính sách này chỉ là hoạt động nghiên cứu đơn thuần về đầu ra của sinh viên.

Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học đang là vấn đề được quan tâm hàng đầu hiện nay đối với ngành giáo dục Việt Nam. Một tổ chức phụ trách về công tác kiểm định chất lượng đặt trong Vụ Đại học thuộc Bộ GD-ĐT đã bước đầu được thành lập. Song một cơ quan hay tổ chức với vị thế và tầm vóc lớn hơn, như một Cục đảm bảo chất lượng, cần sớm được thành lập trong mối quan hệ với hệ thống các cơ quan kiểm định chất lượng khác. Bước tiếp theo, cơ quan quản lý vĩ mô này cần được hậu thuẫn bởi một hệ thống các tổ chức đảm bảo chất lượng và nghiên cứu, tư vấn chính sách nội bộ, đặt trong các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng như những vệ tinh. Cuối cùng, các đơn vị nghiên cứu chính sách nội bộ này có tính tự chủ cao trong cơ sở đào tạo của mình, vừa làm công tác tư vấn nội bộ, vừa tương tác với các cấu trúc chính sách và đảm bảo chất lượng bên ngoài, lại vừa chủ động trong các nghiên cứu dự báo chính sách.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Trên cơ sở phân tích lý thuyết và thực tiễn về tầm quan trọng của quản lý tài chính các trường đại học công lập Việt Nam, nghiên cứu hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến hạn chế, tác giả đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập Việt Nam, một trong những cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo.

Trình tự thực hiện các giải pháp này phụ thuộc vào tầm quan trọng và điều kiện để thực hiện. Trong đó, theo tác giả giải pháp tăng cường tự chủ tài chính các trường đại học công lập Việt Nam (trên cơ sở đã đề cập tới thiết lập điều kiện tự chủ tài chính các trường đại học công lập Việt Nam) cần được ưu tiên thực hiện trước, là tiền đề để áp dụng thành công các giải pháp còn lại. Giải pháp ứng dụng chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính gắn với kết quả đầu ra trong thực hiện vai trò của Nhà nước cần được thực hiện để có cơ sở phân bổ ngân sách chính xác, khoa học và có căn cứ phù hợp, giải pháp về hoàn thiện chính sách học phí, chính sách hỗ trợ cho học sinh, sinh viên cũng phải được ưu tiên tạo ra hành lang chuẩn cho các trường thực hiện. Bằng những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đã được phân tích kỹ trong chương 2 tác giả cũng đưa ra nhóm giải pháp mang tính vi mô (điều kiện để thực hiện thành công các giải pháp vĩ mô) để giúp bản thân các trường tăng cường quản lý tài chính các trường đại học công lập Việt Nam

Nếu được triển khai và thực hiện nghiêm túc các giải pháp nêu trên, quản lý tài chính các trường đại học công lập Việt Nam sẽ được hoàn thiện và đạt được mục tiêu của cùng của quản lý tài chính từ đó là điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục đại học.


KẾT LUẬN CHUNG

Tiến đến một nền kinh tế tri thức là mục tiêu của bất cứ quốc gia nào. Thực tế cho thấy quốc gia nào chú trọng đến đầu tư vào giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học đều đạt được những kết quả về kinh tế và xã hội vượt bậc. Trong những năm qua, ở Việt Nam, hoạt động đầu tư cho giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước được tập trung nhiều ở các trường đại học công lập. Nhưng để đầu tư mang lại hiệu quả tương xứng thì quản lý tài chính đối với những đơn vị này cần phải được chú trọng. Song làm thế nào để hoàn thiện quản lý tài chính, đồng thời đánh giá được hiệu quả của nó tới chất lượng đào tạo lại là vấn đề cần quan tâm.

Bằng việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu, tác giả đã tập trung giải quyết những vấn đề sau:

1. Phân tích và đi đến thống nhất quan niệm về quản lý tài chính các trường đại học công lập. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vai trò của quản lý tài chính đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo của trường đại học công lập.

2. Luận giải về tự chủ tài chính, khái niệm tự chủ tài chính, xây dựng thang đo đánh giá quản lý tài chính các trường đại học công lập ở Việt Nam

3. Phân tích thực trạng quản lý nguồn thu và các khoản chi, cũng như phân tích thực trạng quản lý tài chính theo hướng tự chủ tài chính các trường đại học công lập - phương thức quản lý tài chính, cơ sở để tăng các khoản thu và nâng cao hiệu quả chi, chia sẻ gánh nặng với NSNN.

4. Phân tích cơ sở lý luận của tăng cường tự chủ tài chính các trường đại học công lập.

5. Phân tích quản lý tài chính các trường đại học công lập Việt Nam trên cơ sở bám sát các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra cho lộ trình phát triển giáo dục đào tạo, đồng thời kết hợp chặt chẽ với thực trạng quản lý tài chính của các trường đại học công lập những năm qua để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập gắn với chất lượng đầu ra hướng tới bền vững tài chính.

Quản lý tài chính các trường đại học công lập vừa là vấn đề rộng, vừa phức tạp. Mặc dù, nó không quá mới mẻ ở Việt Nam, nhưng nghiên cứu nhưng nghiên cứu để đi đến thống nhất quan điểm về quản lý tài chính các trường đại học công lập, hay để thiết lập điều kiện tự chủ và phân nhóm các trường có khả năng tự chủ toàn bộ kinh phí thường xuyên hay xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính đối với các trường đại học công lập Việt Nam lại là vấn đề mới ở nước ta. Bởi vậy, trong khuân khổ nghiên cứu của một luận án khó tránh khỏi những khiếm khuyết về nội dung, phương pháp tiếp cận và xử lý một số vấn đề cụ thể nào đó. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học và những người có quan tâm về vấn đề này.


KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Mặc dù nghiên cứu sinh đã rất cố để giải quyết "khoảng trống" liên quan đến "quản lý tài chính" mà nghiên cứu sinh đã tổng quan. Tuy nhiên, sẽ triệt để hơn, nếu tiếp tục nghiên cứu theo hướng sau:

Vê đối tượng nghiên cứu: sẽ mở rộng hơn cho quản lý quá trình lập kế hoạch, thanh tra giám sát.

Về phạm vi nghiên cứu: bổ sung cơ sở dữ liệu của các trường đại học công lập trong mẫu nghiên cứu đến năm 2011.

Về nội dung nghiên cứu: sẽ ứng dụng hệ thống chỉ tiêu đánh giá quản lý tài chính gắn với kết quả đầu ra trong vai trò của nhà nước và trong vai trò của trường đại học công lập để tăng tính thuyết phục cho việc phân loại nhóm trường đại học công lập có khả năng tự chủ tài chính và trường đại học công lập không có khả năng tự chủ tài chính.

Về phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp định lượng để đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới quản lý tài chính các trường đại học thông qua xây dựng thang đo và xây dựng bảng hỏi để điều tra.


DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ


1. Vũ Thị Thanh Thủy (2012), “Tự chủ tài chính các trường đại học công lập Việt Nam”. Kinh tế phát triển, Tháng 01/2012.

2. Vũ Thị Thanh Thủy (2012), “Đổi mới cơ chế tài chính với giáo dục đại học công lập”,

Nghiên cứu Tài chính Kế toán, tháng 01/2012.


3. Vũ Thị Thanh Thủy (2011), “Giáo dục, y tế và đời sống: Đạt nhiều thành tựu mới”, Thuế nhà nước, 32-33(342+343), tr 38-39.

4. Vũ Thị Thanh Thủy (2011), “Giáo dục – chìa khóa của động lực phát triển”, Thuế Nhà nước, 31(341), tr28-29.

5. Vũ Thị Thanh Thủy (2010), “Quyền lợi của cổ đông được hiểu như thế nào”, Thuế nhà nước, 25(287), tr22-23.

6. Vũ Thị Thanh Thủy (2010), “Quyền lợi thực của các cổ đông hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học khoa Ngân hàng tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân, tháng 06/2010, tr93-95.

7. Vũ Thị Thanh Thủy (2007), Tài chính tiền tệ - Giáo trình, Tham gia biên soạn, Trường đại học Lao động xã hội.

8. Vũ Thị Thanh Thủy (2011), “Quản lý giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo”, Kỷ yếu khoa Kế toán, Đại học Lao động xã hội, tháng 5/2011.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/11/2022