Tăng Cường Tích Lũy Dự Trữ Ngoại Hối Và Chống Đô La Hóa Nền Kinh Tế


động gì, tiền nhận được khi giải thể quỹ bao gồm tiền vốn đầu tư ban đầu và lãi được chia là doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh gì thì không được làm rõ.

Hai là tiếp tục thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút nguồn kiều hối. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất các ngành sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực (như dệt may, chế biến thủy hải sản), các ngành công nghệ cao (như công nghệ điện tử, phần mềm máy tính), các ngành sản xuất ít sử dụng nguyên liệu nhập khẩu. Chính sách kiều hối tiếp tục thực hiện theo định hướng thu hút dòng kiều hối chuyển về nước, đồng thời đảm bảo tính minh bạch của các dòng tiền chuyển về, hạn chế hoạt động chuyển tiền bất hợp pháp.

Ba là hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong nước, đảm bảo an ninh quốc phòng. Không chỉ tại các thành phố lớn, mà tại các khu vực kinh tế trọng điểm, Chính phủ cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng về đường xá, cảng biển… tạo điều kiện lưu thông dễ dàng cho các doanh nghiệp, kết nối các vùng kinh tế trọng điểm với nhau. Chính phủ cần thường xuyên kiểm tra, rà soát việc chấp hành các quy định của Nhà nước, cần xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật làm tổn hại và bất ổn đến kinh tế đất nước. Quốc phòng, an ninh vững mạnh để người dân yên tâm sản xuất kinh doanh.

Bốn là kiểm soát lạm phát. Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, Ngành có liên quan phối hợp, đặc biệt là đối với NHNN để kiểm soát lạm phát trong nước, ổn định giá trị đồng tiền. Nếu không kiểm soát tốt, lạm phát bùng phát sẽ gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế. Ngược lại, khi lạm phát trong tầm kiểm soát, kinh tế ổn định, vị thế đồng Việt Nam được nâng lên, thu hút dòng vốn vào quốc gia, từ đó, tăng cường tích lũy dự trữ ngoại hối.

Năm là cần sớm ban hành đề án chống đô la hóa cho giai đoạn tiếp theo. Năm 2007, Chính phủ đã ban hành quyết định số 98/2007/QĐ-TTg về đề án chống đô la hóa đến năm 2010. Từ đó đến nay, mặc dù Chính phủ vẫn chủ trương thực hiện chống đô la hóa nhưng chưa ban hành đề án cụ thể nhằm phối hợp các Bộ, ngành có liên quan cùng thực hiện. Một khi đề án được ban hành thì sẽ có lộ trình cụ thể, vai trò, trách nhiệm của


các đơn vị cũng được xác định một cách rõ ràng, làm cho việc chống đô la hóa tiến hành một cách khoa học, có kế hoạch cụ thể hơn.

5.2.1.2. Kiểm soát tốt dòng vốn vào và ra quốc gia

Mặc dù chính sách của Chính phủ nhằm thu hút nguồn vốn vào quốc gia để gia tăng tích lũy dự trữ ngoại hối nhưng song song với quá trình đó, Chính phủ cần phải kiểm soát các dòng vốn vào và ra khỏi quốc gia. Để kiểm soát dòng vốn, ngoài các công cụ chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa cũng cần được sử dụng. Kinh nghiệm của các nước đã cho thấy trong giai đoạn dòng vốn vào tăng ồ ạt và dòng vốn ra cũng thay đổi theo xu hướng trên, Chính phủ các nước đã sử dụng các công cụ liên quan đến chính sách tài khóa để kiểm soát dòng vốn. Chẳng hạn tại Thái Lan, để đối phó với dòng vốn vào tăng mạnh vào cuối năm 1990, chính quyền đã có chính sách phản ứng lại với luồng vốn vào bằng cách thu thuế thu nhập đối với các khoản thanh toán cho người không cư trú và cho phép công dân Thái Lan đầu tư ra nước ngoài tự do. Điều này đã góp phần thành công trong việc kiểm soát dòng vốn vào tại Thái Lan giai đoạn trên. Chính phủ Thái Lan đã kiểm soát thành công dòng vốn vào sau hai năm. Theo Ostry (2010), ngoài việc kiểm soát dòng vốn vào, dòng vốn ra khỏi quốc gia cũng phải được kiểm soát. Nếu việc kiểm soát dòng vốn này lỏng lẻo thì có thể ảnh hưởng đến dòng vốn vào ròng tổng hợp và do đó tác động đến tỷ giá và các biến kinh tế vĩ mô khác. Các công cụ kiểm soát vốn bao gồm: các công cụ kiểm soát hành chính đối với tổng số lượng vốn vào; đánh thuế và các giao dịch ngoại hối; yêu cầu tỷ lệ dự trữ không hưởng lãi suất và các quy định như sử dụng các biện pháp cấp giấy phép đối với các loại hình đầu tư, quy định mức trần đối với tỷ lệ cổ phần nước ngoài trong các công ty trong nước, phát hành cổ phần quốc tế phải được chính phủ cho phép...(Nguyễn Thị Vũ Hà, 2013).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

Đối với dòng vốn vào, Việt Nam đang thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nên không đưa ra các biện pháp quy định trực tiếp lên tổng số lượng vốn vào, không kiểm soát dòng vốn vào bằng cách tăng thuế. Ngược lại, Việt Nam có những ưu đãi đặc biệt về thuế đối với các doanh nghiệp FDI. Việc miễn giảm thuế cho doanh


Ảnh hưởng tích lũy dự trữ ngoại hối đến lạm phát và hoạt động can thiệp trung hòa của ngân hàng nhà nước Việt Nam - 17

nghiệp đã được quy định rõ tại rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Cụ thể là mục I, chương III của Luật Đầu tư 2014, Điều 4 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 và được tiếp tục bổ sung sửa đổi bằng Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi năm 2013 và Luật số 71/2014/QH13 về thuế sửa đổi 2014. Theo quy định của pháp luật về thuế TNDN hiện hành, các doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại khu kinh tế được áp dụng mức thuế suất 10% trong thời gian 15 năm liên tục kể từ năm đầu tiên doanh nghiệp có doanh thu. Về dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ Việt Nam cũng đã có những động thái nhất định nhằm mở rộng loại hình đầu tư này ở Việt Nam. Cụ thể ngày 26/06/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán và Thông tư 123/2015/TT-BTC ngày 19/8/2015 hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam. Theo đó, tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã có thay đổi so với trước đây. Đối với công ty đại chúng hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài mà chưa có quy định cụ thể về sở hữu nước ngoài, thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa là 49%. Về việc đầu tư vào trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài, Nghị định quy định, nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư không hạn chế vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp, trừ trường hợp pháp luật có liên quan hoặc tổ chức phát hành có quy định khác. Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoài cũng được đầu tư không hạn chế vào chứng chỉ quỹ, cổ phiếu không có quyền biểu quyết.

Đối với dòng vốn ra khỏi quốc gia, tùy theo hình thức mà Chính phủ Việt Nam có những quy định nhất định. Đối với các khoản lợi nhuận của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài được chuyển hàng năm số lợi nhuận được chia hoặc thu được từ các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam ra nước ngoài khi kết thúc năm tài


chính, sau khi doanh nghiệp mà nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật, đã nộp báo cáo tài chính đã được kiểm toán và tờ khai quyết toán thuế TNDN năm tài chính cho cơ quan quản lý thuế trực tiếp21. Đối với các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài, Chính phủ Việt Nam quy định hạn mức ngoại tệ chuyển ra nước ngoài trước khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo đó, hạn mức này không được vượt quá 5% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài và không quá 300.000 USD, được tính vào tổng vốn đầu tư ra nước ngoài22. Về các khoảng đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, do tính chất linh hoạt và rủi ro cao nên Chính phủ Việt Nam vẫn chưa thực hiện mở cửa đối với dòng vốn này. Ngày 29/6/2016, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 105/2016/ TT-BTC về việc hướng dẫn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Theo đó, việc đầu tư ra nước ngoài ở Việt Nam hiện mới chỉ áp dụng cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán và doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Chỉ công ty chứng khoán được cấp phép thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán mới được đầu tư hoặc ủy thác đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Tổ chức tự doanh có vốn đầu tư nước ngoài không được thực hiện đầu tư gián tiếp ra nước ngoài. Các tổ chức này chỉ được đầu tư ra nước ngoài trong một giới hạn cho phép được quy định tại các điều trong Thông tư về tỷ lệ đầu tư an toàn. Tỷ lệ đầu tư an toàn của công ty chứng khoán là 30% vốn chủ sở hữu, công ty quản lý quỹ là 20% vốn chủ sở hữu.

Như vậy, tại Việt Nam, xu hướng hiện nay là khuyến khích các dòng vốn vào và giới hạn các dòng vốn ra khỏi quốc gia. Chính phủ cần giám sát chặt chẽ dòng vốn vào và ra khỏi quốc gia, đặc biệt đối với dòng vốn vào. Để tạo sự ổn định cho dòng vốn vào


21 Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 186/2010/TT-BTC ngày 18/11/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật Đầu tư.

22 Khoản 4 Điều 19 Nghị định 83/2015/NĐ-CP ngày 25/9/2015 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài.


sau khi đã thu hút được đầu tư nước ngoài, Chính phủ cần phải duy trì một môi trường đầu tư ổn định, thuận lợi để các doanh nghiệp an tâm tiến hành sản xuất kinh doanh.

5.2.2. Kiến nghị đối với NHNN

5.2.2.1. Tăng cường tích lũy dự trữ ngoại hối và chống đô la hóa nền kinh tế

Một là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm thanh khoản của TCTD và nền kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ.

Hai là tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao vị thế của đồng Việt Nam, khuyến khích sử dụng tiền đồng, hạn chế việc sử dụng ngoại tệ. Giải pháp chủ yếu cụ thể là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, duy trì mức chênh lệch dương giữa lãi suất tiền gửi Việt Nam đồng và ngoại tệ, thu phí chuyển đổi ra Việt Nam đồng đối với ngoại tệ. Ngày 29/5/2018, NHNN mới ban hành Quyết định số 1158/QĐ-NHNN về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với TCTD, ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho ngoại tệ của TCTD vẫn không thay đổi. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng đối với tiền gửi bằng tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn dưới 12 tháng vẫn là 8%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên vẫn là 6%. Tỷ lệ này đã duy trì từ năm 2011 đến nay. Trong thời gian tới, NHNN nên cân nhắc để tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi này nhằm hạn chế việc sử dụng ngoại tệ của TCTD. Bên cạnh đó, NHNN cần phải luôn duy trì mức chênh lệch dương giữa lãi suất tiền đồng và ngoại tệ, khi đó, thay vì gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, người dân sẽ chuyển sang tiền đồng để hưởng lãi suất cao hơn. Ngoài ra, hiện nay, các TCTD được phép hoạt động ngoại hối không được thu phí giao dịch đối với các giao dịch ngoại tệ23, NHNN nên cho phép các TCTD được phép thu phí chuyển đổi ngoại tệ ra VND, tuy nhiên, cần quy định biên độ hoặc mức tối đa có thể để không làm ảnh hưởng đến tỷ giá.


23 Theo điều 11 thống tư 15/2015/TT-NHNN ban hành ngày 2/10/2015 về hướng dẫn giao dịch ngoại tệ trên tiền gửi ngoại tệ của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối.


Ba là NHNN cần đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và tăng cường chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực ngoại hối nhằm chống việc rửa tiền, thất thoát ngoại hối của quốc gia. NHNN cần kết hợp với các Bộ, ngành có liên quan để thường xuyên thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm quản lý ngoại hối tại các đơn vị, đặc biệt là các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối như các ngân hàng thương mại.

5.2.2.2. Sử dụng linh hoạt, phát huy hiệu quả tối đa các công cụ can thiệp trung hòa, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở

NHNN cần chú trọng đến các biện pháp để phát huy tối đa hiệu quả hoạt động thị trường mở. Ngoài nghiệp vụ thị trường mở, tương ứng với tình hình tài chính tiền tệ từng thời kỳ, các công cụ can thiệp trung hòa bổ sung khác cũng nên được linh hoạt sử dụng như dự trữ bắt buộc, tiền gửi chính phủ.

Về nghiệp vụ thị trường mở

Để nghiệp vụ thị trường mở là công cụ can thiệp trung hòa chủ yếu, nâng cao hiệu quả hoạt động của công cụ này, NHNN cần thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất là phải xây dựng một thị trường tài chính nói chung vững mạnh. Để làm được điều này, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều Bộ, Ngành có liên quan. Tuy nhiên, đóng vai trò chủ đạo vẫn là NHNN. Nếu thị trường tài chính kém phát triển, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở sẽ không hoạt động tốt được. Khi thị trường tài chính vững mạnh, ổn định, nhà đầu tư có niềm tin vào thị trường và sẽ tham gia tự nguyện. Do đó, khi NHNN đưa ra các giao dịch sẽ được họ phản ứng tích cực, từ đó làm tăng hiệu quả sử dụng công cụ can thiệp trung hòa. Ngoài các giải pháp được đưa ra ở phần trên, NHNN cần tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông để tuyên truyền, phổ biến thông tin về điều hành tiền tệ của NHNN và hoạt động ngân hàng, nhằm nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Từ đó góp phần tạo dựng lòng tin của người dân về một nền tài chính vững mạnh.


Thứ hai là đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên thị trường mở. Theo Điều 10 Thông tư 42/2015/TT-NHNN quy định về nghiệp vụ thị trường mở, các loại giấy tờ có giá được NHNN chấp nhận giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở phải đảm bảo một số điều kiện, trong đó có điều kiện sau: “Giấy tờ có giá có thể chuyển nhượng và nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá được giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở”, và “danh mục các loại giấy tờ có giá được giao dịch nghiệp vụ thị trường mở do Thống đốc NHNN quyết định”. Như vậy, NHNN cần phải thường xuyên rà soát và bổ sung thêm các loại GTCG có đủ điều kiện để tham gia giao dịch trên OMO nhằm tăng cường tính thanh khoản cho các loại GTGT, đồng thời tạo thêm hàng hóa cho OMO.

Thứ ba là tăng cường mối liên kết giữa NHNN và Bộ Tài Chính trong việc phát hành trái phiếu Chính phủ. NHNN cần nắm bắt được thông tin của Bộ Tài Chính kế hoạch về quy mô và số lượng Trái phiếu Chính phủ phát hành trong năm để NHNN chủ động điều chỉnh số lượng tín phiếu NHNN phát hành giao dịch trên OMO. Tùy theo diễn biến tình hình tiền tệ, khi biết được thông tin số lượng Trái phiếu Chính phủ cần phát hành, NHNN sẽ chủ động điều chỉnh khối lượng, tần suất phát hành tín phiếu NHNN, qua đó hỗ trợ Bộ Tài Chính phát hành thành công Trái phiếu Chính phủ. Như vậy, với việc kết hợp như trên, NHNN vừa giúp cung cấp hàng hóa cho OMO, vừa điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, hiệu quả.

Thứ ba là tăng cường sự kết nối giữa NHNN với các thành viên OMO. NHNN cần tăng cường hơn nữa sự kết nối với các thành viên OMO nhằm nắm bắt được thông tin thị trường, từ đó đưa ra quyết định thích hợp. NHNN cần phải thường xuyên trao đổi, cập nhật tin tức của các thành viên OMO về các loại giấy tờ có giá đang nắm giữ, nhu cầu vốn khả dụng hằng ngày để biết được tình hình thực tế tại các thành viên. Từ đó, NHNN có cơ sở đưa quyết định thích hợp để điều hành OMO. Bên cạnh đó, NHNN cũng nên thường xuyên tiến hành khảo sát tại các đơn vị thành viên về những vấn đề có liên quan đến OMO để nhận thấy một cái nhìn khách quan về việc điều hành OMO của


NHNN. Có như vậy, NHNN mới phát hiện ra được những ưu nhược điểm về công tác điều hành, quản lý và có những cải tiến thích hợp.

Thứ tư là hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho OMO phải đảm bảo nhanh chóng, kịp thời, chính xác, đảm bảo kết nối thông suốt giữa NHNN và các đơn vị thành viên. Hiện nay, hệ thống báo cáo theo dự án FSMIMS24 nhằm phát triển hạ tầng công nghệ ngân hàng hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực dựa trên cơ sở ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin đã từng bước được thực hiện. Năm 2017, NHNN đã chính thức vận hành hệ thống báo cáo mới cho phù hợp với hệ thống thanh toán hiện đại, thống nhất giữa các NHNN và TCTD. NHNN cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện, triển khai đề án để hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin, phục vụ cho công tác quản lý và điều hành chính sách tiền tệ nói chung và nghiệp vụ thị trường mở nói riêng.

Về dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là một công cụ để NHNN thực hiện can thiệp trung hòa theo nghĩa rộng, kiểm soát cung tiền. Theo hướng dẫn của IMF về kiểm soát dòng vốn vào quốc gia25, sự gia tăng của cung tiền do tích lũy dự trữ ngoại hối từ dòng vốn vào có thể được trung hòa thông qua OMO. Tuy nhiên, có một sự giới hạn về can thiệp trung hòa. Thị trường tài chính trong nước có thể không đủ khả năng hấp thụ hết một sự gia tăng đáng kể trái phiếu sử dụng để can thiệp trung hòa và có một chi phí tài chính liên quan đến sự khác biệt giữa lãi phải trả cho trái phiếu và tiền lãi thu được từ dự trữ ngoại hối. Do đó, các quốc gia có thể thực hiện can thiệp trung hòa bằng hình thức khác là tăng dự trữ bắt buộc. Cách can thiệp này không làm tăng chi phí tài chính như hình thức can thiệp bằng OMO. Tại Việt Nam, trong một khoảng thời gian dài từ năm 2011 đến nay, ngoại trừ Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn, NHNN chỉ một lần có


24 Dự án FSMIMS đã được Chính phủ phê duyệt thực hiện theo Quyết định số 112/2006/QĐ- TTg ngày 24/5/2006.

25 Ostry & ctg (2010)


động thái điều chỉnh dự trữ bắt buộc theo hướng giảm cho một số TCTD đặc biệt26. Công cụ này hầu như không được sử dụng đối với các TCTD nói chung trong thời gian gần đây. Trong thời gian tới, NHNN cần phối hợp sử dụng linh hoạt công cụ này kết hợp OMO và các công cụ khác để thực hiện can thiệp trung hòa khi cần thiết. Tuy nhiên, khi sử dụng dự trữ bắt buộc, cần lưu ý đến kinh nghiệm của Hàn Quốc giai đoạn năm 2004

– 2007, dự trữ bắt buộc không có hiệu quả để thực hiện can thiệp trung hòa vì trước đó đã bị đẩy tăng lên khá cao trong giai đoạn 1987 – 1989. Theo Ostry & ctg (2010), dự trữ bắt buộc được sử dụng quá mức có thể dẫn đến việc giải thể tài chính không mong muốn. Việc thay đổi liên tục dự trữ bắt buộc làm cho hoạt động của các ngân hàng không ổn định và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng khó khăn và tốn kém hơn.

Khác với công cụ OMO dùng để điều chỉnh linh hoạt tiền cơ sở trong nền kinh tế, công cụ dự trữ bắt buộc khó có thể sử dụng để điều chỉnh những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ. Để sử dụng công cụ này cần xem xét đến yếu tố dài hạn. Ví dụ nếu NHNN dự báo trong năm tới, dòng vốn vào sẽ tăng mạnh thì để giảm bớt áp lực can thiệp trung hòa bằng OMO trong năm, ngay từ đầu năm, NHNN sẽ điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trước để giảm bớt cung tiền của TCTD. Mức tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tùy thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện tại và các điều kiện tiền tệ khác như nhu cầu vốn khả dụng của TCTD.

Về tiền gửi của Chính phủ

Để tạo điều kiện thuận lợi cho NHNN kiểm soát, điều tiết tiền tệ khi cần thiết, NHNN cần nắm đầy đủ thông tin về quy mô tiền gửi Chính phủ hiện tại. Quy mô tiền gửi Chính phủ tại NHNN thì NHNN đã thu thập được. Bên cạnh đó, cần có một sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài Chính đối với tiền gửi Chính phủ tại các TCTD.


26 Ngày 29/5/2018, NHNN đã ban hành Quyết định số 1158/QĐ-NHNN về dự trữ bắt buộc, nhưng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD không thay đổi so với trước đây, ngoại trừ Quỹ tín dụng nhân dân và Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.


Bộ Tài chính cần thông báo đầy đủ thông tin cho NHNN về khoản tiền gửi này. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần cung cấp thông tin về kế hoạch dòng tiền thu và chi ngân sách của Chính phủ để NHNN nắm được tình hình và linh hoạt sử dụng công cụ này khi cần thiết.

Bên cạnh các công cụ can thiệp trung hòa trên, theo kinh nghiệm của NHTW một số nước, NHNN có thể linh hoạt sử dụng các công cụ bổ sung khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, phát hành chứng khoán có giá trị bằng ngoại tệ.

5.2.2.3. Giảm chi phí can thiệp trung hòa, nâng cao tính bền vững của hoạt động can thiệp trung hòa

Với công cụ chủ yếu là nghiệp vụ thị trường mở, chi phí tài chính cao có thể phát sinh do việc trả lãi cho các loại giấy tờ có giá giao dịch trên thị trường. Ngoài ra, khi sử dụng các công cụ can thiệp trung hòa bổ sung khác, NHNN cũng tốn chi phí tương tự. Như vậy, để giảm thiểu chi phí can thiệp trung hòa, khó có thể giảm lãi suất trả cho các công cụ phát hành. Do đó, NHNN phải chú ý đến nguồn khác bổ sung, đó là nguồn thu từ dự trữ ngoại hối. NHNN cần chú trọng đến các biện pháp làm tăng khả năng sinh lời của dự trữ ngoại hối mà NHNN nắm giữ. Nguồn thu được từ dự trữ ngoại hối sẽ phần nào bù đắp lại chi phí cơ hội và chi phí tài chính cho hoạt động trung hòa khi NHNN can thiệp trên thị trường ngoại hối. Hơn thế nữa, nếu khai thác tốt nguồn này, NHNN không chỉ trang trải được chi phí, duy trì được tính bền vững can thiệp trung hòa, mà còn đem lại nguồn thu cho NHNN, góp phần ổn định và phát triển thị trường tài chính tiền tệ trong nước. Theo khoản 3 điều 13 Nghị định số 07/2006/NĐ-CP của Chính phủ về Chế độ tài chính của NHNN Việt Nam, NHNN có khoản thu về nghiệp vụ mua, bán và giao dịch ngoại hối. Hơn nữa, theo Điều 33 Luật NHNN Việt Nam năm 2010, NHNN được thực hiện việc mua, bán ngoại hối trên thị trường trong nước vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia; mua, bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện giao dịch ngoại hối khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, NHNN có thể có nguồn thu từ hoạt động ngoại hối ( Nguồn thu từ mua, bán ngoại hối hoăc lợi tức từ các giấy tờ có giá


bằng ngoại tệ). Do đó, để tăng khả năng sinh lời từ dự trữ ngoại hối, NHNN có thể quy định một hạn mức giao dịch nhất định để kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế và phải có đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện công việc này một cách chuyên nghiệp. NHNN sẽ thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả giao dịch và lập dự phòng để kịp thời xử lý hậu quả nếu có.

Bên cạnh đó, tính bền vững của hoạt động can thiệp trung hòa của NHNN bị ảnh hưởng do phụ thuộc vào tỷ giá USD và tỷ trọng USD trong tổng dự trữ ngoại hối. Do đó, NHNN cần đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong dự trữ ngoại hối, tập trung vào các loại ngoại tệ mạnh khác chứ không phải chỉ có USD là chủ yếu. NHNN cần phân tán rủi ro, đề phòng khi có những biến động bất lợi cho việc nắm giữ dự trữ ngoại hối của NHNN.

5.2.2.4. Tăng cường dự báo, phân tích thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế, đề phòng xử lý khi khủng hoảng xảy ra

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, diễn biến nền kinh tế thế giới rất phức tạp, biến động khó lường về mọi mặt. Mở cửa hội nhập tạo ra nhiều cơ hội, thời cơ cho các quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, những khó khăn, thách thức cùng với nguy cơ khủng hoảng luôn đi kèm. Vì vậy, vấn đề phân tích, dự báo thị trường phải đặc biệt được coi trọng để có thể đề phòng và kịp thời ứng phó khi nền kinh tế thế giới có những diễn biến xấu, gây ra khủng hoảng.

NHNN cần phải luôn luôn có một đội ngũ chuyên gia phân tích dự báo xuất sắc, không chỉ được trang bị đầy đủ kiến thức tài chính tiền tệ mà còn phải có trải nghiệm thực tế về vấn đề nghiên cứu trước đó. Các chuyên gia này phải liên tục được cử đi học, bồi dưỡng kiến thức về tài chính, tiền tệ, kinh tế lượng, kinh tế vi mô, vĩ mô. Ngoài việc học và khảo sát thực tế ở trong nước, họ cần được trải nghiệm thực tế ở NHTW các nước khác để rút ra bài học kinh nghiệm, phục vụ cho công tác dự báo của NHNN Việt Nam.


5.2.2.5. Kiểm soát dòng vốn vào và ra quốc gia trong quá trình hội nhập

Song song với việc tăng cường tích lũy dự trữ ngoại hối khi thị trường ngoại hối thặng dư và thực hiện can thiệp trung hòa, NHNN nên phối hợp với các Bộ, ngành khác để kiểm soát tốt dòng vốn vào và ra quốc gia. NHNN có một nhiệm vụ rất quan trọng là quản lý ngoại hối và sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật. Hiện nay, việc chuyển dòng vốn vào Việt Nam và việc chuyển dòng vốn từ Việt Nam ra nước ngoài đều thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. NHNN cần giám sát chặt chẽ các dòng vốn này, đảm bảo an toàn, hiệu quả, góp phần hỗ trợ phát triển thị trường tài chính, huy động vốn cho đầu tư và phát triển, ưu tiên tập trung nguồn lực phát triển kinh tế trong nước.

5.3. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu nhưng luận án vẫn còn một số hạn chế như sau:

Một là hạn chế về dữ liệu nghiên cứu. Mặc dù Luận án lựa chọn thời điểm thu thập số liệu theo quý từ quý I/2014 đến quý II/2017 đã phản ảnh khá đầy đủ các giai đoạn, diễn biến về lạm phát và tích lũy dự trữ ngoại hối quốc gia tại Việt Nam, cũng như thể hiện khá đủ các biện pháp và cách thực thực hiện can thiệp trung hòa của NHNN. Tuy nhiên, nếu có thể triển khai thu thập bộ dữ liệu theo hướng mở rộng thời kỳ nghiên cứu thì có thể sẽ có thêm được các phát kiến mới thực sự có giá trị khoa học. Các nghiên cứu tiếp theo có thể nghiên cứu cho giai đoạn dài hơn.

Hai là hạn chế về việc thu thập thông tin quản lý về tích lũy dự trữ ngoại hối và can thiệp trung hòa của NHNN. NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ Tỷ giá liên ngân hàng sang Tỷ giá trung tâm kể từ tháng 01/2016. Do đó, cách thức quản lý, xây dựng và tích lũy dự trữ ngoại hối cũng như cách thức trung hòa trong việc triển khai chính sách tiền tệ của NHNN có những thay đổi khá căn bản trước và sau khi áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá nêu trên. Tuy nhiên, do không thể tiếp cận được thông tin chi tiết cũng như số liệu cụ thể liên quan đến sự thay đổi này của NHNN nên luận án chưa thực hiện và phân tích thêm kiểm định về sự đứt gẫy trong cấu trúc của dữ liệu. Các nghiên

Xem tất cả 184 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí