Quản Lý Rủi Ro Trong Hoạt Động Kinh Doanh Xuất Nhập Khẩu Vàng


nào về tiêu chuẩn của hệ thống công nghệ. Do đó vào các thời điểm số lượng giao dịch lớn hay giá vàng biến động nhiều, hệ thống rất dễ bị sự cố sập mạng và gây ra nhiều thiệt hại cho cả phía Ngân hàng và các nhà đầu tư.

Rủi ro về trình độ: một số chuyên viên quản lý sản vàng chưa có đủ trình độ để hỗ trợ hay quản lý tốt sản vàng, do đó dễ dẫn đến sự thua lỗ cho Ngân hàng, trong khi điều kiện hoạt động cũng như trình độ tham gia của nhà đầu tư kinh doanh vàng trên sàn ngày một nâng cao.

Qua những rủi ro trên, trong thời gian vừa qua, các NHTM tại TP.HCM đã tiến hành xây dựng quy chế, quy trình kinh doanh vàng nhằm đảm bảo quyển lợi của Ngân hàng và khách hàng; xây dựng giới hạn lỗ, dừng lỗ trong kinh doanh vàng, hạn mức giao dịch được cấp cho từng dealer và cấp quản lý. Bên cạnh đó, Ngân hàng đã tăng cường kiểm soát, gia tăng khả năng quản lý rủi ro của kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ nhằm kịp thời ngăn chặn những rủi ro và hiện tượng tiêu cực phát sinh đảm bảo an toàn cho NHTM trong kinh doanh vàng. Tận dụng tối đa các nguồn thông tin, đối chiếu và chọn lọc các nguồn thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư. Tư vấn và hỗ trợ cho các nhà đầu tư kiến thức pháp lý, kỹ thuật kinh doanh, khả năng dự đoán biến động giá vàng, sử dụng các công cụ phái sinh phòng chống rủi ro khi giá vàng biến động. Kéo dài thời gian giao dịch của buổi tối đến 23 giờ nhằm phù hợp với diễn biến thời gian giá vàng thế giới. Đa dạng hóa các lệnh cho các nhà đầu tư như: lệnh chốt lời và lệnh cắt lỗ như đã được nhiều sàn vàng trước đây áp dụng. Từ những rủi ro xảy ra trong việc kinh doanh vàng vật chất cũng như tại các sàn vàng của NHTM, và tại các nước trên thế giới, NHNN cần tham mưu cho Chính phủ trong việc mở sàn vàng Quốc gia tập trung. Việc làm này sẽ có những ích lợi như kiểm soát được lượng vàng trong dân, thu hút được tiền nằm dưới dạng vàng trong dân và hướng nó vào phục vụ lợi ích kinh tế; đưa giá vàng Việt Nam và thế giới cân bằng; kiểm soát được tỷ giá, giúp tỷ giá đi vào ổn định, hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng, bởi vì việc chênh lệch giá vàng không còn thì nhu cầu buôn lậu, gom USD sẽ bị triệt tiêu. Hơn nữa việc kinh doanh vàng tài khoản tại sàn vàng Quốc gia tập trung, việc nhập vàng chính ngạch chỉ cần một số lượng vừa đủ để


dành cho trang sức là chính và hoạt động kinh doanh vàng sẽ trở nên ổn định. Kể từ khi sàn vàng ngưng hoạt động, nhu cầu thực tế của nhà đầu tư vẫn rất lớn và bất chấp rủi ro, họ đã và đang tham gia vào các sàn vàng phi chính thức, Nhà nước bị thất thu thuế và hoạt động kinh doanh vàng tại các sàn phi chính thức không được Nhà nước quản lý nên quyền lợi của nhà đầu tư không được bảo vệ.

Theo dự thảo sửa đổi Pháp lệnh Ngoại hối cũng như quy định chi tiết tại Nghị định 24, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của người cư trú được thực hiện nếu được Thủ tướng chính phủ cho phép và NHNN cấp giấy phép. Thị trường vàng vẫn đang trong thời gian chờ đợi các bản dự thảo lấy ý kiến của chuyên gia và của người dân về hoạt động và quản lý KDNH theo quy chuẩn, nằm trong sự điều hành của Nhà nước và góp phần phát triển kinh tế nước nhà. Bản dự thảo đã thể hiện rõ sự cân nhắc về mức độ an toàn trong hoạt động KDNH cho các NHTM và cho toàn hệ thống ngân hàng được ưu tiên lên hàng đầu của các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong giai đoạn hệ thống quản lý rủi ro trong KDNH của các NHTM vẫn còn rất yếu.

2.3.1.3. Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vàng

Trong thời gian vừa qua, một số NHTM cổ phần tại TP.HCM đã tham gia việc xuất khẩu vàng ra nước ngoài khi giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới, đặc biệt là khi NHNN ngưng không cho các TCTD giao dịch vàng tài khoản quốc tế. Hoạt động xuất khẩu vàng đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, góp phần giảm nhập siêu và giải phóng tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Nhà nước hiện đang có hai mục tiêu mâu thuẩn nhau: một mặt NHNN lo ngại xuất khẩu vàng sẽ làm giảm nguồn vàng nên muốn giữ lại vàng trong dân, mặt khác NHNN lại có chủ trương luôn muốn chống tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế, tức không khuyến khích giữ vàng trong dân.

Trong một trường hợp khác, các NHTM khi bị cấm giao dịch vàng tài khoản quốc tế và trạng thái vàng vật chất bị quá dư thừa trong nước, các NHTM có nhu cầu tìm đường xuất khẩu vàng và cho thấy hầu như không NHTM nào muốn giữ lại

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.


trạng thái dương của vàng, tức muốn chuyển giao rủi ro trạng thái này sang một Ngân hàng khác ở nước ngoài.

Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM - Trường ĐH Ngân hàng - 16

Để hạn chế xuất khẩu vàng, ngày 15/11/2010 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 184/2010/TT-BTC (gọi tắt là Thông tư 184) liên quan đến biểu thuế xuất nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2011, để hưởng thuế suất 0%, sản phẩm vàng xuất khẩu phải có hàm lượng vàng nhỏ hơn hoặc bằng 99% và trọng lượng nhỏ hơn hoặc bằng 1 ounce, nếu không thuế suất sẽ là 10%, một kiểu hàng rào kỹ thuật chưa có tiền lệ về chỉ số hàm lượng và chỉ số trọng lượng. Đây là một loại rủi ro chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu vàng của NHTM. Có lẽ, Thông tư 184 nhắm đến mục tiêu hạn chế xuất khẩu vàng hơn là thu thuế cho ngân sách. Nếu thế, nên xem xét điều chỉnh giảm thuế suất 10% xuống còn 1% chẳng hạn, để mức thuế suất danh nghĩa có sự hợp lý tương đối về mặt hình thức, tránh sự chênh lệch hai chiều quá lớn giữa thuế nhập khẩu vàng 0% và thuế xuất khẩu vàng 10%. Khi Thông tư 184 có hiệu lực, trong 7 tháng đầu năm 2011 các Ngân hàng và doanh nghiệp xuất khoảng 30 tấn vàng mang về khoảng 1,5 tỷ USD với tất cả các lô hàng xuất đều thuộc diện áp thuế 0%. Thực tế đó cũng đủ để chứng minh rằng, không có doanh nghiệp nào chịu nổi thuế suất 10%. Doanh nghiệp chỉ chờ cơ hội xuất khẩu theo diện áp thuế 0% khi mức chênh lệch giá giữa giá trong nước và giá thế giới đủ lớn để bù đắp một số chi phí liên quan đến lô hàng xuất như: chi phí chế biến hàm lượng vàng, chi phí kiểm định vàng, chi phí chế tác, chi phí vận chuyển và bảo hiểm, lãi vay Ngân hàng và các chi phí khác,...

Một rủi ro khác mà NHTM gặp phải khi xuất khẩu vàng là sự biến động giá vàng quá nhanh và có thể làm cho Ngân hàng bị lỗ, tức là giá xuất khẩu vàng thấp hơn giá thu mua vàng vật chất trong nước. Trên thực tế để quản trị các rủi ro của quá trình xuất khẩu vàng, các NHTM thực hiện bán vàng tài khoản ở nước ngoài để bảo hiểm số vàng vật chất đã mua. Về mặt kỹ thuật, bán vàng tài khoản cũng xem như là “xuất khẩu tại chỗ” hay “xuất khẩu không giao hàng”. Lúc này, NHTM đang nợ nước ngoài về vàng tài khoản và phải trả lãi vay vàng tài khoản cho đến khi xuất khẩu vàng vật chất trả nợ hoặc mua vàng tài khoản tất toán trạng thái với nước


ngoài. Một cách khác là NHTM mua vàng vật chất vào làm tài sản và từ đó có thể dùng số vàng này ký gửi làm tài sản đảm bảo để tiếp cận các nguồn vốn đa phương cấp quốc gia hoặc cho các mục đích khác. Gửi vàng ra nước ngoài bao hàm một hoạt động xuất khẩu đã diễn ra dù chưa bán đứt.

Nhìn trên góc cạnh vĩ mô của nền kinh tế, xuất khẩu vàng giúp thu hồi USD và cuối cùng là VNĐ, giảm nhập siêu, xóa bớt tình trạng “vàng hóa” trong dân, nhưng dự trữ chung của quốc gia sẽ giảm xuống trong khi Nhà nước chưa có cơ chế mua vàng của dân hoặc sử dụng vốn vàng trong dân. Còn đối với nhập khẩu vàng, hoạt động này sẽ tiêu tốn USD, gây áp lực lên tỷ giá USD/VNĐ, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mô, nhưng ta chưa có dự trữ vàng đủ lớn để can thiệp thị trường khi có dấu hiệu tâm lý bất ổn. Trong quản lý, giá vàng thế giới biến động ra sao không quan trọng, Nhà nước luôn mong muốn rằng giá trong nước liên thông kịp thời, bám sát giá vàng thế giới. Rõ ràng, sự liên thông này rất quan trọng vì giúp triệt tiêu động cơ xuất nhập khẩu vàng, mà không có xuất nhập khẩu vàng sẽ không gây ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, cụ thể không tăng cung USD do xuất khẩu vàng và không tăng cầu USD do nhập khẩu vàng. Đó là rủi ro của hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới khía cạnh quản lý Nhà nước.

Tại các NHTM hiện nay, việc quản lý rủi ro trên tỏ ra rất lỏng lẻo và hầu như chưa có một quy định nào để quản lý hiệu quả rủi ro hoạt động xuất nhập khẩu vàng này. Thực tế hoạt động xuất nhập khẩu vàng tại các NHTM với những rủi ro như phân tích trên lại chưa có cách quản lý hiệu quả, tuy nhiên không thể vì những rủi ro như vậy mà Nhà nước lại cấm loại hình giao dịch này.


2.3.2 Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ

2.3.2.1. Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ

Còn đối với nghiệp vụ phái sinh ngoại tệ, nghiệp vụ tài chính phái sinh đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1990, chủ yếu là tại các Ngân hàng có giao dịch với các Ngân hàng nước ngoài. Một số Ngân hàng lớn như: Vietcombank, BIDV, Vietinbank,.... cũng đã triển khai chủ yếu các nghiệp vụ như: mua bán ngoại


tệ kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai, quyền chọn cho các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, các sản phẩm công cụ phái sinh hiện nay tại các Ngân hàng còn ít, chưa thu hút được các doanh nghiệp sử dụng, vì thế, thu nhập từ các công cụ phái sinh còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu nhập của Ngân hàng.

Hiện nay dù có tham gia vào một số nghiệp vụ phái sinh nhưng hầu như các NHTM tại TP.HCM chỉ chú ý đến việc mua bán ngoại tệ nhằm mục đích đáp ứng cho thanh toán quốc tế, vay và cho vay ngoại tệ mà hầu như không thực hiện bảo hiểm tỷ giá nên trong KDNH thì các NHTM đóng vai trò chủ yếu là trung gian giao dịch để hưởng chênh lệch giá hơn là những nhà tạo lập thị trường. Chính vì lẽ đó, các NHTM rất yếu về phân tích tỷ giá mà đặc biệt là rất yếu về phân tích kỹ thuật, hầu như rất ít Ngân hàng sử dụng phân tích kỹ thuật như một công cụ hỗ trợ thêm cho phân tích cơ bản trong phân tích tỷ giá. Đó cũng là lý do vì sao mà ít NHTM mạnh về kinh doanh đầu cơ mà chủ yếu chỉ kinh doanh cho khách hàng nhằm hưởng chênh lệch giá, cho nên, hầu như các NHTM giữ trạng thái tự doanh ngoại tệ rất ít, và đa phần cũng mua bán các giao dịch phái sinh ngoại tệ trong nước với các đối tác nước ngoài nhằm hưởng chênh lệch giá, tùy thuộc vào từng thời kỳ theo quyết định của Hội đồng Quản trị và Ban Tổng giám đốc Ngân hàng. Từ đó rủi ro xảy ra cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ mặt hay ngoại tệ phái sinh rất ít khi xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng trong chừng mực kiểm soát được. Hoạt động tự doanh của Ngân hàng cũng như việc thực hiện các giao dịch phái sinh của Ngân hàng hay doanh nghiệp với doanh số rất ít trong thời gian vừa qua cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng các nghiệp vụ phái sinh trên là các nghiệp vụ hiện đại, phức tạp nên đòi hỏi đội ngũ nhân viên Ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao mới có thể tư vấn cho các doanh nghiệp; đồng thời việc quảng bá, giới thiệu của Ngân hàng đến doanh nghiệp chưa rộng rãi, nên doanh nghiệp chưa biết hoặc không mặn mà với các dịch vụ mới về công cụ phái sinh của Ngân hàng. Hơn nữa, tỷ giá USD/VNĐ đang có xu hướng ổn định trong những năm vừa


qua, đặc biệt là nữa năm đầu của năm 2010 và những tháng đầu năm 2012 cũng là một lý do. Mặc dù tỷ giá USD/VNĐ biến động thường xuyên qua các năm theo chiều hướng đồng Việt Nam có giá trị sụt giảm so với các đồng tiền nước ngoài, nhưng trong suốt một quãng thời gian khá dài vừa qua, sự biến động này chỉ tăng một chiều với biên độ hẹp nên nhu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá không được quan tâm đến. Trên thực tế, áp lực tăng tỷ giá vẫn luôn hiện hữu và rủi ro tỷ giá trong tương lai khó loại trừ, nhưng phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các Ngân hàng vẫn chưa nhận diện được và chưa mặn mà với các công cụ phòng ngừa rủi ro. Cụ thể trong thời gian qua, thị trường ngoại hối Việt Nam luôn rơi vào tình trạng khan hiếm USD và tỷ giá USD/VNĐ không phải lúc nào cũng bình ổn, nửa cuối năm 2010 cho đến đầu 2011, tỷ giá USD/VNĐ đột ngột liên tiếp leo thang làm cho thị trường ngoại hối ngày càng căng thẳng và rủi ro tỷ giá bắt đầu xuất hiện trở lại.

Tuy nhiên đến đầu năm 2009, do sự lợi dụng các sản phẩm phái sinh ngoại tệ như kỳ hạn USD/VNĐ hay quyền chọn USD/VNĐ để giao dịch USD/VNĐ vượt tỷ giá trần do NHNN quy định, nên NHNN đã cấm các giao dịch phái sinh này. Sau nhiều năm liền chỉ lình xình trong khoảng 1%, tỷ giá USD/VNĐ đã thể hiện những biến động lớn và căng thẳng, gây xáo trộn trên thị trường và trong hoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định, các NHTM chỉ được phép bán USD đúng với giá niêm yết và theo biên độ cụ thể ở từng thời kỳ so với tỷ giá bình quân liên Ngân hàng. Những thời điểm ngột ngạt, tỷ giá phi chính thức đã xuất hiện ngay trong lòng hệ thống Ngân hàng, mà nghiệp vụ quyền chọn và kỳ hạn USD/VNĐ là một kẽ hở. Tại những thời điểm thị trường ngoại hối căng thẳng, Ngân hàng và doanh nghiệp chủ động chọn giao dịch quyền chọn kiểu Mỹ, tức thực hiện theo một tỷ giá thỏa thuận và có thể đáo hạn ngay. Cơ chế này “nhẹ nhàng” lách qua quy định giao dịch giao ngay phải đúng giá niêm yết. Để trám lại lỗ hổng đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Công văn 4941/NHNN-QLNH ngày 1/7/2009 ghi rõ các TCTD không được phép thu phí thông qua các hợp đồng dịch vụ và các hình thức khác như chi trả hoa hồng, phí quản lý tiền mặt,… để bán vượt trần.


Theo dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch hối đoái và Thông tư hướng dẫn phạm vi hoạt động ngoại hối đang được lấy ý kiến từ tháng 3/2012, các sản phẩm phái sinh nhiều khả năng sẽ được cho phép giao dịch trở lại với các điều kiện chặt chẽ hơn các quy định trước của NHNN. Trong đó, bản dự thảo cũng đề cập đến các nguyên tắc quản lý rủi ro cơ bản trong quản lý rủi ro KDNH mà các quy định trước đây của NHNN không có. Ví dụ: Giao dịch quyền chọn chỉ được lựa chọn theo kiểu châu Âu tức là chỉ được thực hiện giao dịch quyền chọn USD/VNĐ tại thời điểm đáo hạn; kỳ hạn của các giao dịch dự kiến được xác định tối thiểu là 30 ngày đến 365 ngày. Còn đối với giao dịch kỳ hạn USD/VNĐ thì thời hạn thanh toán tối thiểu đối với giao dịch kỳ hạn là 3 ngày làm việc sau ngày giao dịch.

2.3.2.2. Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ mua bán ngoại tệ giao ngay

Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng, giao dịch giao ngay luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số giao dịch ngoại tệ, trong khi giao dịch phái sinh chưa phát triển nhiều. Trong tổng số giao dịch ngoại tệ giao ngay, mua bán chuyển khoản chiếm tỷ trọng trên 90% doanh số, và các giao dịch bán ngoại tệ của Ngân hàng chủ yếu là bán USD và đáp ứng phần lớn cho nhu cầu thanh toán quốc tế và du học. Tuy nhiên trong thời gian qua, việc bán USD của Ngân hàng luôn kèm theo phí dưới các hình thức khác nhau để bù khoản chênh lệch giá giữa tỷ giá Ngân hàng và tỷ giá của thị trường phi chính thức (gọi là “phí bù lỗ tỷ giá”), do vậy trong các trường hợp Ngân hàng bán USD cho doanh nghiệp hay cá nhân có nhu cầu theo tỷ giá niêm yết (không thu thêm khoản phí nào) sẽ bị lỗ, đây cũng chính là rủi ro của Ngân hàng trong giao dịch mua bán USD chuyển khoản. Do vậy các Ngân hàng thường có sự lựa chọn mục đích sử dụng ngoại tệ của khách hàng để bán, cụ thể đối với nhu cầu bán và chuyển tiền thanh toán du học, Ngân hàng sẽ bán USD theo giá niêm yết, đồng thời thu thêm phí bù lỗ tỷ giá và khoản phí này được cộng dồn vào phí chuyển tiền ra nước ngoài; đối với nhu cầu du lịch, công tác thì hầu hết các Ngân hàng đều tìm cách từ chối giao dịch vì đây là giao dịch mua bán ngoại tệ tiền mặt, Ngân hàng không thu thêm bất kỳ khoản phí nào nên không có lý do để tăng thêm phí bù lỗ tỷ giá được. Nếu phân tích chi tiết giao dịch bán USD tiền


mặt thì Ngân hàng phải tốn rất nhiều chi phí: để có USD tiền mặt, đa số trường hợp phải nhập khẩu từ nước ngoài với mức phí khoảng 0,05% số tiền nhập, để có mức phí rẻ nhất thì phải nhập số lượng lớn, sử dụng dần trong nhiều tháng khiến một lượng vốn bị tồn đọng không sinh lãi. Do vậy khi Ngân hàng bán USD tiền mặt theo giá niêm yết sẽ không bù đắp được chi phí, đây là lý do khiến nhiều Ngân hàng từ chối bán USD tiền mặt cho khách hàng.

Bên cạnh đó, nhu cầu mua ngoại tệ hiện nay chủ yếu của khách hàng là USD, kể cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu các nước không phải là Mỹ hay khách hàng đi du lịch đến nhiều nơi không sử dụng tiền USD. Lý do khách hàng chuộng mua USD hơn các ngoại tệ khác vì tỷ giá này không biến động nhiều. Trong khi đó, giá các loại ngoại tệ khác phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường thế giới, rủi ro cao hơn. Ngoài ra, phần lớn người dân cũng không thích giữ ngoại tệ khác do có lãi suất gửi tại các Ngân hàng cho các ngoại tệ này thấp hơn so với USD. Các Ngân hàng lại hạn chế loại ngoại tệ gửi tiết kiệm cũng khiến người dân ngần ngại. Hiện nay, các Ngân hàng hầu như chỉ nhận gửi tiết kiệm bằng USD và EUR. Do đó, các Ngân hàng khi giao dịch ngoại tệ không phải USD cũng phải chịu rủi ro do các lý do trên.

Chính vì lẽ đó, để không phải bán USD bị lỗ, các Ngân hàng phải thu phí hay mua bán USD thông qua một ngoại tệ thứ ba, hay phải mua bán USD thông qua một hợp đồng kỳ hạn hay quyền chọn USD như đã đề cập ở các phần trên. Tuy nhiên, hiện nay cả ba cách trên đều bị NHNN cấm thực hiện. Đến thời điểm tháng 8/2012, NHNN đang lấy ý kiến cho bản dự thảo thông tư về các giao dịch hối đoái được phép thực hiện, quy trình và phương thức quản lý rủi ro trên thị trường ngoại tệ. Rủi ro kinh doanh ngoại tệ giao ngay của Ngân hàng vẫn còn cho đến khi tình trạng hai tỷ giá ngoại tệ trên thị trường chấm dứt và việc “ưa chuộng” USD của khách hàng cho các giao dịch ngoại tệ không còn tiếp diễn. Cho đến thời điểm tháng 8/2012, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức của Ngân hàng và thị trường phi chính thức hầu như không còn, diễn biến thị trường ngoại tệ trầm lắng, nhu cầu của khách hàng có thể được đáp ứng theo tỷ giá liên Ngân hàng (gần sát tỷ giá niêm yết của NHTM). Tuy nhiên khi thị trường ngoại tệ sôi động, cung vượt quá cầu, chênh lệch hai tỷ giá

Xem tất cả 250 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí