thô. Kim ngạch xuất khẩu gia tăng không đáng kể. Cán cân thương mại ngày càng bội chi với mức bội chi ngày càng tăng.
Biểu đồ 2.1Giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu giai đoạn 1975-1989
3000
2500
Tiệu USD
2000
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập - 2
- Sự Tác Động Qua Lại Giữa Chính Sách Quản Lý Ngoại Hối Và Các Nhân Tố Khác Trong Nền Kinh Tế
- Chính Sách Quản Lý Ngoại Hối Góp Phần Phát Triển Sản Xuất, Ổn Định Giá Cả Và Thúc Đẩy Nền Kinh Tế Tăng Trưởng.
- Quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập - 6
- Ảnh Hưởng Của Chính Sách Quản Lý Ngoại Hối Đến Nền Kinh Tế
- Kiều Hối Chuyển Qua Hệ Thống Ngân Hàng Và Phi Ngân Hàng
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
1500
1000
500
0
1975 1976 1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989
Năm
Giá trị xuất khẩu giá trị nhập khẩu
*Nguồn: Niêm giám thống kê
Nguyên nhân của thực trạng trên trước hết là do sự bất hợp lý của tỷ giá. Việc đồng Việt Nam bị đánh giá cao đã khuyến khích nhập khẩu, đồng thời kìm hãm xuất khẩu. Giá trị hàng xuất khẩu không bù đắp được nhu cầu nhập khẩu đã dẫn đến tình trạng cán cân thương mại thường xuyên bị thâm hụt, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút trầm trọng. Phản ứng tất yếu của Nhà nước trước thực trạng này là tăng cường kiểm soát ngoại hối, bảo hộ mậu dịch, hạn chế nhập khẩu, xiết chặt ngoại thương, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng nhập khẩu và bảo hộ nền sản xuất nội địa. Tuy nhiên, mặt trái của các giải pháp này là xuất hiện tình trạng khan hiếm vật tư, nguyên liệu cần thiết v.v.. gây khó khăn cho nền sản xuất trong nước.
Đối với xuất khẩu, mặc dù được Nhà nước bù lỗ thông qua tỷ giá kết toán nội bộ, song các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu không bù đắp được chi phí, làm hạn chế lượng hàng xuất trong kỳ. Ngoài ra, do không trực tiếp giao dịch với thị trường quốc tế, các tổ chức ngoại thương vừa thiếu thông tin thị trường vừa
không nhạy bén trong kinh doanh. Hậu quả là các đơn vị xuất nhập khẩu hoạt động cầm chừng theo kế hoạch và trông chờ vào sự bù lỗ của Nhà nước. Tất cả các yếu tố trên làm cho nền kinh tế trong nước đã trì trệ lại càng đình đốn, chỉ số giá tăng liên tục làm cho đời sống nhân dân ngày càng tồi tệ.
- Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) một dấu ấn quan trọng trong giai đoạn này là việc Chính phủ ban hành Luật đầu tư nước ngoài ngày 1/2/1987. Ngay từ những năm đầu này, nhiều nhà đầu tư quốc tế đã bất chấp sự cấm vận của Mỹ chuyển vốn vào Việt Nam kinh doanh. Đến cuối năm 1987 tổng số vốn đầu tư được cấp phép là 1.4 tỷ USD. Các lĩnh vực đầu tư dầu khí chiếm 63.4%; dịch vụ chiếm 17.2%, nông lâm ngư nghiệp chiếm 19.4%. Nhưng nhìn chung, nguồn vốn FDI trong thời kỳ này vẫn còn qúa khiêm tốn. Nguyên nhân của vấn đề, trước hết là do tư duy và công cụ quản lý quan liêu, cửa quyền, cộng với thái độ e dè của các cấp có thẩm quyền đối với các nhà đầu tư thuộc khối TBCN làm cho cánh cửa đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mở nhưng còn quá nhiều rào chắn, làm nản chí nhiều nhà đầu tư; hơn nữa, một số nhà đầu tư lo ngại về chính sách mở cửa nền kinh tế của Việt Nam nên đã xin rút giấy phép hoạt động.
2.1.4. Nhận xét chính sách nhà nước độc quyền quản lý kinh doanh ngoại hối
Bên cạnh những kết quả đạt được, cơ chế kế hoạch hoá nói chung và chính sách độc quyền và kinh doanh ngoại hối nói riêng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Sự tác động của chính sách ngoại hối đến nền kinh tế thể hiện rõ nét qua:
Thứ nhất, chính sách độc quyền và kiểm soát và kinh doanh ngoại hối đã buộc các doanh nghiệp kết hối toàn bộ số ngoại tệ thu được. Khi có nhu cầu chính đáng, các đơn vị này sẽ được các ngân hàng cung ứng ngoại tệ. Cùng với cơ chế kế hoạch hoá cao độ, chính sách này tạo ra thực trạng khiến các doanh nghiệp cố gắng hoàn thành chỉ tiêu kế hoặch được giao, không quan tâm đến
chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh doanh, quản trị tài chính, kiểm soát rủi ro tỷ giá. Kết quả nền kinh tế ngày càng trì trệ, lạc hậu.
Thứ hai , hậu quả của việc xác định tỷ giá duy ý chí, chủ quan là đồng Việt Nam và RCN bị đánh giá cao so với các đồng tiền mạnh làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, mặt khác làm gia tăng các khoản nợ nước ngoài khi chuyển đổi từ RCN sang USD (RCN bị đánh giá quá cao so với USD) gây bất lợi cho cán cân vãng lai và tạo gánh nặng nợ nước ngoài.
Thứ ba, Việc duy trì tỷ giá cố định trong thời gian dài làm ổn định giá hàng trong nước, nhưng mặt trái của vấn đề là Chính phủ phải bao cấp vào giá cho nhóm hàng tư liệu sản xuất. Điều này có nghĩa, giá nguyên vật liệu nhập khẩu không phản ánh đúng giá trị của chúng, giá thành hàng xuất khẩu không phản ánh đúng chi phí bỏ ra. Việc làm này đã tách thị trường nội địa, bao gồm các yếu tố ―đầu vào‖, ―đầu ra‖ ra khỏi sự biến động của thị trường quốc tế. Thị trường trong nước hoàn toàn bị cô lập. Để cân đối thị trường, Chính phủ phải tăng khoản bao cấp của ngân sách, dẫn đến tình trạng ngân sách luôn bị thâm hụt và mức thâm hụt năm sau nặng nề hơn năm trước. Để bù đắp khoản thiếu hụt này, Chính phủ phải tìm đến nguồn vốn phát hành. Nguồn vốn phát hành cho mục đích bù đắp chi tiêu của ngân sách đã tạo ra áp lực lớn lên lạm phát, và khiến cho nền tài chính, tiền tệ quốc gia càng ngày nguy hiểm.
Thứ tư, vì không thừ nhận nền tiền tệ chợ đen và nền kinh tế ngầm nên nhà nước không thiết lập các biện pháp kinh tế phù hợp để quản lý chặt chẽ thị trường này. Trong thực tế, sự biến động phức tạp của thị trường chợ đen cộng với những sai lầm trong chính sách cải cách lương giá tiền (năm 1985) làm cho chỉ số lạm phát gia tăng, nền kinh tế bất ổn.
Thứ năm, tư tưởng độc quyền kinh doanh ngoại hối đã tác động xấu đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Trong giai đoạn này, NHNT độc quyền thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại làm triệt tiêu tính cạnh trạnh của ngân hàng. Mặt khác, khách hàng của hệ thống ngân hàng là các cơ quan nhà nước, các đơn vị
quốc doanh. Điều này tạo ra một tư tưởng, thậm chí một thực trạng cho ngân hàng trong thời kỳ này là ― Ngân hàng của Nhà nước‖. Chức năng trung gian tài chính, tín dụng của ngân hang bị lãng quên. Tất cả các yếu tố này đã biến ngân hàng trở thành một cơ quan quản lý hành chính về mặt tiền tệ của Nhà nước hơn là một đơn vị kinh doanh tiền tệ trong nền kinh tế.
Tóm lại, chính sách độc quyền trong ngoại thương và cơ chế tỷ gía cố định đã bộc lộ nhiều nhược điểm trong quá trình vận hành. Có thể nói, trong giai đoạn này, hoạt động quản lý ngoại hối đã kiềm chế sự tăng trưởng của nền kinh tế đối nội và đối ngoại, tác động xấu đến mọi lĩnh vực trong đời sống và làm ách tắc quá trình lưu thông tiền tệ.
2.2. THỜI KỲ SAU ĐỔI MỚI NỀN TIỀN TỆ ĐẾN NAY
2.2.1. Bối cảnh nền kinh tế và tiền tệ Việt Nam từ năm 1989 đến nay
Quá trình đổi mới nền tiền tệ bắt đầu từ việc chuyển hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp; NHNN giữ chức năng phát hành tiền và quản lý vĩ mô hoạt động ngân hàng; Hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Đây là thời kỳ xác lập hệ thống văn bản pháp quy tạo thành hành lang pháp lý cho các hoạt động của nền kinh tế nói chung và cho lĩnh vự ngân hàng nói riêng.
Thời kỳ từ năm 1989-1992
Đây là giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế theo định hướng XHCN. Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng khá hơn nhưng chưa cao. Tốc độ tăng trưởng của cả nước trong năm 1990: 5,1%; năm 1991: 5.8%; năm 1992: 8.7%. Đây là thời kỳ đổi mới vừa kiểm nghiệm nên đất nước còn gặp nhiều khó khăn.
Tình hình tài chính có nhiều biến động do nền kinh tế còn nhiều mặt thiếu cân đối. Thị trường xuất nhập khẩu bị thu hẹp đáng kể do sự tan rã của Liên Xô và các nước Đông Âu. Nhiều mặt hàng bị ứ đọng do mất thị trường truyền
thống. Nguồn viện trợ quốc tế bị giảm sút do chính sách cấm vận của Mỹ. Các doanh nghiệp quốc doanh đang trong tình trạng sắp xếp, củng cố lại nên chưa thực sự ổn định. Trình độ chuyên môn cũng như đạo đức của một số cán bộ lãnh đạo yếu kém ảnh hưởng xấu đến nền sản xuất. Nợ quá hạn gia tăng, tỷ lệ lạm phát phi mã, hệ thống vừa chuyển từ một cấp sang hai cấp nên còn nhiều thiếu sót. Nhiều tổ chức kinh tế hoạt động yếu kém, mất khả năng thanh toán hoặc phá sản kéo theo sự sụp đổ của hầu hết các tổ chức tín dụng, Quỹ tín dụng và làm yếu hệ thống NHTM
Để chấn chỉnh hoạt động ngân hàng, Nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh Ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng (24/5/1990). Chính sách tiền tệ được thông qua với nhiều đổi mới về tư duy và điều hành như: thiết lập các công cụ kiểm soát khả năng tạo tiền như dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng; chính sách lãi suất thực dương được áp dụng; bước đầu xây dựng thị trường tín dụng Liên ngân hàng, thị trường hối đoái; việc phát hành tiền cho ngân sách được hạn chế và được thay thế bằng việc phát hành tín phiêú kho bạc của Nhà nước….Những thay đổi này đã góp phần rất lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đưa tỷ lệ lạm phát xuống dưới một con số và tạo nền tảng tích cự cho giai đoạn phát triể tiếp theo.
Thời kỳ từ năm 1993-1996
Trong giai đoạn này, tình hình kinh tế xã hội tương đối ổn định, tiếp tục phát triển và tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng của cả nước trong năm 1993 là 8.1%; 1994 là 8.8%; 1995 là 9.5%; 1996 là 9.3%. Tỷ lệ lạm phát tiếp tục được kiểm soát và có khuynh hướng giảm.
Trong hoạt động đối ngoại, với nỗ lực trong cải cách kinh tế cộng với đường lối ngoại giao thông minh, Chính phủ đã nối lại quan hệ với hai định chế tài chính quốc tế WB và IMF; thuyết phục Mỹ bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 11/7/1995. Sự kiện này đã tạo tiền đề cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại của VN với các nước trong khối TBCN. Cụ thể VN đã
ký hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật với Liên minh Châu Âu (17/7/1995), trở thành thành viên khối ASEAN (28/7/1995). Những kết quả này một lần nữa đã chứng tỏ sự đúng đắn trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta; Đồng thời đây cũng chính là các nhân tố quan trọng đẩy nhanh tiến độ đổi mới của dân tộc.
Trong lĩnh vực đối nội, điểm nổi bật trong thời kỳ này là sự gia tăng vượt bậc của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ sở hạ tầng có nhiều chuyển biến tích cực, hệ thống bưu chính viễn thông được hiện đại hoá một cách nhanh chóng. Thâm hụt ngân sách giảm đáng kể và được bù đắp bằng nguồn vốn phát hành công trái và trái phiếu chính phủ. Hệ thống ngân hàng được chấn chỉnh bằng sự ra đời của 2 bộ luật: Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/1998. Hoạt động ngân hàng được tổ chức ngày càng đồng bộ và hiệu quả trong tất cả các lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối, dịch vụ…Công ghệ ngân hàng được cải tiến, hầu hết các ngân hàng đã đưa tin học vào hoạt động thanh toán trong và ngoài nứơc. NHNN đã thành công trong việc phát hành và sử dụng hiệu quả ngân phiếu thanh toán, ổn định giá vàng, kiểm soát tỷ giá…
Giai đoạn sau cuộc khủng hoảng Tài chính tiền tệ đến nay
Năm 1997 được đánh dấu bằng cuộc đại khủng hoản tài chính Châu Á. Mặc dù không bị ảnh hưởng trực tiếp như các nước trong khu vực, song nền kinh tế Việt Nam vẫn bị biến động đáng kể. Trong năm này, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại, năm 1997 là 8.15%, năm 1998 là 5.76%; năm 1999 là 4.77%; và năm 2000 là 6.75%. Sự sụt giảm trong giai đoạn này trước hết là do tác động của cuộc khủng hoảng; sau nữa đây là thời kỳ thể hiện toàn bộ các thiếu sót trong quản lý kinh tế của các năm trước đó. Tuy môi trường kinh doanh ít thuận lợi hơn so với giai đoạn trước, nhưng Chính phủ vẫn triệt để thực hiện nhiều cải cách trong việc điều hành chính sách tiền tệ mà sự kiện đáng ghi nhận là sự ra đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM năm 2000, Hệ thống
ngân hàng cung ứng tương đối đủ vốn cho nền kinh tế, mạng lưới ngân hàng tiếp tục được cải tổ. Các NHTM vừa chấn chỉnh hoạt động kinh doanh, vừa nâng cao công nghệ ngân hàng góp phần phục vụ công cuộc đổi mới ngày càng sâu rộng.
Từ năm 2001 đến nay, quá trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ: Năm 2001,Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ; năm 2004, tạo sân chơi bình đẳng cho các Ngân hàng của Mỹ; năm 2005, Việt Nam ký hiệp định thương mại song phương với EU, Nhật Bản; năm 2006, là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO); tổ chức thành công hội nghị APEC, hội nghị ASEM…và đã tạo ra đà tăng trưởng mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng trung bình của Việt Nam đạt 8%, và trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới.
Hệ thống văn bản pháp lý sửa đổi phù hợp với điều kiện và cam kết hội nhập: Luật đầu tư (2005); Luật doanh nghiệp (2005); Luật thương mại (2005) Luật chứng khoán (2006); Pháp lệnh ngoại hối (2005)….tạo ra tính minh bạch và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, từ đó tạo môi trường có tính cạnh tranh cao.
Thị trường vốn và thị trường hàng hoá, dịch vụ trong nước phát triển mạnh mẽ. Hệ thống ngân hàng phát triển lớn mạnh về quy mô và số lượng. Các ngân hàng đã đưa vào kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các công cụ phòng ngừa rủi ro như: hoán đổi, kỳ hạn, tương lai,quyền chọn. Dòng vốn chu chuyển qua hệ thống ngân hàng tăng cao. Ngày càng có nhiều ngân hàng nước ngoài đầu tư và đặt chi nhánh tại việt Nam. Tính đến hết năm 2007, đã có 35 chi nhánh ngân hàng, 5 ngân hàng liên doanh, 4 công ty cho thuê tài chính có vốn liên doanh nước ngoài và 2 công ty cho thuê tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài; Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính giai đoạn này phải kể đến sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và xu hướng đầu tư theo đám đông của các nhà đầu tư Việt Nam vào thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo nên sự
phát triển bong bong cho thị trường, ảnh hưởng đến các yếu tố khác của nền kinh tế như: bất động sản, dụ trữ ngoại tệ và vàng.
Và gần đây là ảnh hưởng của việc giá dầu thế giới liên tục tăng cao cộng với tình trạng khan hiếm lương thực thực phẩm do thiên tai, hạn hán đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế, tiền tệ Việt Nam.
2.2.2. Đổi mới trong chính sách quản lý ngoại hối
2.2.2.1. Xoá bỏ độc quyền kinh doanh ngoại hối
Từ năm 1989, thương mại được tự do hoá. Hoạt động ngoại hối được phát triển vượt bậc, Nhà nước cho phép các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế đủ điều kiện để xuất nhập khẩu trực tiếp. Hệ thống ngân hàng được cải tổ thành hai cấp đã phản ánh đúng chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Bên cạnh đó Chính phủ cũng có nhiều nỗ lực trong việc thay đổi căn bản quản lý ngoại hối. Sự ra đời của thông tư số 33/KH-TT hướng dẫn thi hành Nghị định 161/HĐBT vào tháng 3/1989 và Quyết định 337 của Chính Phủ vào năm 1991 đã đánh dấu thời điểm chuyển đổi cơ chế quản lý ngoại hối ở Việt Nam. Nội dung chính của các văn bản này là xoá bỏ chế độ độc quyền quản lý và kinh doanh ngoại hối. Kể từ đó chính sách quản lý ngoại hối luôn đổi mới theo hướng:
a.Tự do hoá các giao dịch vãng lai:
Chính sách kiều hối
Từ năm 1988, theo Quyết định số 161/HĐBT ngày 18/10/1988 người nhập cảnh được mang ngoại tệ vào không hạn chế sau khi khai báo hải quan. Sau khi Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ năm 1995, NHNN ban hành quyết định 48/QĐ-NHNN7 ngày 23/2/1995 khuyến khích kiều hối chuyển về nước. Theo quy định này, kiều hối chuyển về không hạn chế về khối lượng, số lần gửi và loại ngoại tệ. Người thụ hưởng chính thức được nhận ngoại tệ thông