Chính những lỗ hổng đó mà khiến cho các doanh nghiệp cố tình vi phạm, các hành vi sai phạm ấy lại gây ra tác hại vô cùng lớn: không chỉ gây ô nhiễm, suy thoái môi trường mà sâu xa hơn nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền sống của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Có lẽ vậy, mà hơn 10 năm qua KCN Sài Đồng vẫn ngang nhiên xả thẳng ra sông Cầu Bây mà không quan tâm đến quyền sống trong lành của người dân nơi đây. Một minh chứng rõ nhất cho những tác động của ô nhiễm môi trường ở các KCN đến quyền sống trong môi trường lành của người dân nơi đây đó là “làng ung thư”. Không biết từ bao giờ cái tên làng ung thư, làng ô nhiễm lại xuất hiện. Vừa qua Liên đoàn Quy hoạch và điều tra tài nguyên nước miền Trung- Bộ tài nguyên và môi trường công bố danh sách 10 làng ung thư có nguồn nước bị ô nhiễm nặng nhất ở Việt Nam, trong số đó ở Hà Nội có 2 làng bị gắn với cái tên như vậy. Đó là làng Thống Nhất, xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa và làng Lũng Vỵ, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ. Theo thống kê, có tới 80 người chết trong một năm, có nguồn nước ô nhiễm nặng được xác định do thải công nghiệp và làng nghề xảy ra ở làng Thống Nhất; hay như trong năm 2014, cả làng Lũng Vị với hơn 400 hộ gia đình nhưng có tới 14 người mất, trong đó quá nửa là người chết vì ung thư, tuổi thì đa phần dưới 55 24. Được biết đây là 2 ngôi làng đều nằm trong huyện có hoạt động của KCN Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ và hàng loạt các doanh nghiệp tại huyện Ứng Hòa. Những tác động vô cùng nguy hiểm đến tính mạng của người dân nhưng việc giải quyết những nguyên nhân gây nên hậu quả đó còn quá nhẹ, không đủ làm cho các doanh nghiệp sợ với những con số thống kê thiệt hại lớn đến vậy. Chỉ bằng hành động xả thải trực tiếp ra môi trường của các doanh nghiệp, việc không vận hành trạm xử lý chất thải chỉ vì tiết kiệm chi phí, việc không quan tâm đến môi trường mà các doanh nghiệp đã tự tay hủy hoại môi trường sống của hàng vạn người dân không chỉ thế hệ hiện tại mà cả thế hệ mai sau. Hậu quả gây ra cho những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT nguy hiểm như vậy, nhưng hình thức xử lý chỉ dừng lại ở xử phạt hành chính. Vậy sẽ
24 Trần Ngọc, Làng ung thư giữa lòng Hà Nội đang “khát nước”, http://healthplus.vn/lang-ung-thu-lung-vi-song-chung-voi-nuoc-ban-nuoc-o-nhiem-d22605.html, truy cập 10:02’ ngày 27/4/2016.
còn biết bao gáng nặng mà người dân phải chịu bởi những hành vi tương tự như này gây ra nữa hay như mới đây vị đại diện KCN Formosa đã đưa ra lựa chọn giữa việc muốn bắt cá, bắt tôm hay là muốn xây một nhà máy thép hiện đại để giải thích cho những nghi vấn của xã hội về hiện tượng cá chết.
Tóm lại, hiện nay cũng còn một số nguyên nhân khắc khiến cho việc thực hiện công tác BVMT ở các KCN không đạt hiệu quả cao như do hạn chế về điều kiện khoa học- kỹ thuật trong việc quan trắc, đánh giá hiện trạng môi trường cũng như các công cụ, phương tiện để khắc phục sự cố môi trường; chi phí xây dựng, lắp đặt hạ tầng kỹ thuật BVMT cao trong khi nguồn tài chính cho công tác BVMT còn hạn chế….Và để khắc phục phần nào những hạn chế đó, thì quy định pháp luật hiện hành về BVMT ở KCN cũng đã hình thành một “xương sống”. Quy định nghĩa vụ BVMT đối với các chủ thể trong KCN cũng như trách nhiệm BVMT của cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù cũng tồn tại một vài bất cập, nhưng nhờ có sự điều chỉnh của pháp luật mà môi trường KCN hiện nay cũng được cải thiện rõ rệt.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
Thứ nhất, Nghị quyết 41/NQ/TW của Bộ Chính Trị ngày 15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Quyết định 1216/QĐ-TTg về phê duyệt chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã đưa ra những quan điểm, mục tiêu, định hướng các nội dung, biện pháp BVMT trong đó có đưa ra những nhóm nội dung, biện pháp cụ thể hướng tới mục tiêu giải quyết cơ bản các vấn đề môi trường tại các KCN, lưu vực sông, làng nghề và vệ sinh môi trường nông thôn. Dựa trên cơ sở đó, UBND thành phố Hà Nội đã thông qua Kế hoạch 221/KH-UBND về thực hiện chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cũng chỉ rõ các nội dung cần thực hiện để công tác BVMT đạt kết quả cao như phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường; xử lý chất thải, giảm thiểu chất thải phát sinh các nguồn gây ô nhiễm; cải thiện và phục hồi các khu vực bị ô nhiễm… Cụ thể đối với vấn đề BVMT ở KCN, Kế hoạch có quy định: “Tăng cường công tác điều tra, thống kê, kiểm kê các nguồn thải trên địa bàn thành phố; kiểm soát các hoạt động nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, hoạt động vận chuyển chất thải; xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, quản lý xuất nhập khẩu và lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường trong kiểm tra, giám sát việc nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất.” 25 Cùng với những chiến lược, quyết định về BVMT của cơ quan quản lý nhà nước, thì các quy định pháp luật về BVMT là cần thiết để thực hiện tốt hơn nữa các nội dung trong chiến lược BVMT quốc gia.
Thứ hai, Pháp luật về BVMT đã có những quy định về quản lý chất thải, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường nhưng hiện nay các quy phạm pháp luật đó còn một số bất cập, thiếu sự thống nhất, tạo ra những lỗ hổng gây khó khăn trong công tác quản lý, áp dụng, đặc biệt là công tác BVMT trong các
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Ô Nhiễm Môi Trường Và Công Tác Quản Lý Môi Trường Khu Công Nghiệp Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội
- Công Tác Quản Lý Môi Trường Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội
- Một Số Tồn Tại Trong Công Tác Bảo Vệ Môi Trường Ở Khu Công Nghiệp
- Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội - 10
- Quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường, thực tiễn tại các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội - 11
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
25 Kế hoạch 221/KH-UBND về thực hiện chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của UBND thành phố Hà Nội, ban hành ngày 21/12/2015.
KCN. Hầu hết các quy phạm pháp luật mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc chung, có tính định khung, hơn nữa các quy định pháp luật về BVMT ở các khu công nghiệp còn hạn hẹp. Tình hình vi phạm pháp luật về môi trường ngày càng có những hành vi táo bạo hơn khiến môi trường ngày một xấu đi và việc gánh chịu những hậu quả vì ô nhiễm môi trường của người dân ngày càng nặng nề. Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền con người được sống trong môi trường trong lành, do vậy pháp luật về BVMT cần phải nội luật hóa để đảm bảo quyền này của người dân trên thực tiễn. Và hoàn thiện pháp luật môi trường là bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Điều này thôi thúc cần có một hệ thống pháp luật đủ chặt chẽ, phù hợp để đảm bảo người dân phải luôn sống theo pháp luật.
Thứ ba, môi trường hiện nay đang là chủ đề mà dư luận vô cùng quan tâm, hàng loạt các hiện tượng xảy ra, không chỉ ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên như rác thải ngập ngụa quanh các bãi biển, khu nghỉ mát sau dip nghỉ lễ 30/4 – 1/5 vừa qua, hay còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của sinh vật, đặc biệt là quyền con người được sống trong môi trường trong lành như hiện tượng cá chết ở sông, biển do nguồn nước bị ô nhiễm, rồi thực phẩm bẩn tràn lan tác động lớn đến sức khỏe của người dân…Trước thực trạng môi trường như vậy, rất cần đến sự điều chỉnh của pháp luật để phàn nào ngăn chặn các hiện tượng đó. Và để kịp thời ứng phó, pháp luật cần có những quy định phù hợp hơn, hoàn thiện hơn.
Thứ tư, đến nay Việt Nam cũng đã tham gia khá nhiều Công ước quốc tế về BVMT và cũng còn nhiều Điều ước quốc tế về lĩnh vực môi trường Việt Nam chưa tham gia cũng như do sự phát triển mạnh về kinh tế nên vấn đề BVMT đang trở nên vô cùng cấp bách, do đó các quốc gia luôn muốn cùng nhau thỏa thuận, cùng nhau kí kết những Điều ước quốc tế khác để đưa ra các biện pháp BVMT toàn cầu. Chính vậy, để phát triển hơn nữa trong hợp tác quốc tế về lĩnh vực này thì việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về BVMT nói chung và BVMT ở KCN nói riêng là điều cần thiết nhằm phù hợp hơn với pháp luật và thông lệ quốc tế trên cơ sở thỏa mãn với thực tiễn ở Việt Nam, với sự phát triển kinh tế- xã hội để hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Một số đề xuất hoàn thiện
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật về bảo vệ môi trường
Mặc dù việc BVMT đã được thể hiện qua Hiến pháp, Luật BVMT, các Nghị quyết, Nghị định, Thông tư với các quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường; BVMT đất, nước, không khí; ứng phó và phòng ngừa sự cố môi trường, biến đổi khí hậu; bảo về tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học… Tuy nhiên trong bối cảnh mở cửa hội nhập khu vực, quốc tế và sự biến đổi mạnh của môi trường cũng như vấn đề công nhận quyền môi trường thì đặt ra nhiều yêu cầu hoàn thiện pháp luật về BVMT.
Pháp luật về BVMT cần được hoàn thiện theo hướng phát triển bền vững. Trong thời buổi hiện nay, việc phát triển kinh tế cần phải đi đôi với bảo vệ môi trường và bảo đảm an sinh xã hội. Nó đảm bảo sự phát triển đồng bộ và bền vững ở mọi lĩnh vực. Không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai thì việc phát triển này là luôn cần thiết trên cơ sở kết hợp hài hòa, chặt chẽ những không thiếu tính thống nhất giữa các vấn đề của đất nước. Do vậy, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định về luật BVMT thì các ngành luật liên quan cũng cần được hoàn thiện như Luật đầu tư, luật khoáng sản, luật dầu khí… để đảm bảo bên cạnh việc chấp hành theo các quy định thì các chủ thể cần phải thực hiện BVMT trong khi thực hiện những hoạt động mà Luật cho phép. Ví dụ, về khai thác khoáng sản thì Khoản 1, Điều 12 Luật khoáng sản quy định việc lập quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản chung cả nước phải bảo đảm nguyên tắc “bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác.” Như vậy, Luật khoáng sản đã lồng ghép quyền khai thác khoáng sản của các chủ thể theo Luật với nghĩa vụ BVMT khi thực hiện hoạt động đó. Đây là một hướng quy định khá hiệu quả, bắt buộc mọi người trước khi hưởng quyền phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với cộng đồng. Để công tác BVMT đạt kết quả cao thì không chỉ Luật BVMT điều chỉnh mà cần hơn nữa các quy định pháp luật trong các lĩnh vực cùng điều chỉnh để phần nào tạo ra sự thống nhất trong các văn bản pháp luật và đặc biệt là thay đổi ý thức của các chủ thể trong vấn đề BVMT, cho mọi người thấy được tầm quan trọng
của BVMT đối với đời sống, quyền con người. Cần lồng ghép cụ thể hơn quy định về BVMT vào quy phạm pháp luật ở các ngành, lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật việt Nam.
Nhưng để đảm bảo hơn việc BVMT thì trước tiên pháp luật về BVMT cần phải được chú ý hoàn thiện, tạo một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất thì mới có sự kết hợp quy định trong các văn bản pháp luật của lĩnh vự khác. Qua hơn 20 năm thực hiện Luật BVMT từ khi Luật BVMT năm 1993 được ban hành, thì cũng có những kết quả nhất định trong việc điều chỉnh đến hoạt động môi trường, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều cá nhân, tổ chức không tuân thủ pháp luật gây ra ô nhiễm môi trường. Có thể do thiếu sự điều chỉnh kịp thời, phù hợp của pháp luật nên dẫn đến tình trạng trên. Do có sự hạn chế về kiến thức, tác giả cũng đưa ra một vài đề xuất, mong muốn góp phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn quy định pháp luật về BVMT, đặc biệt là BVMT ở các khu công nghiệp. Cụ thể:
Quy định về đánh giá tác động môi trường.
Để báo cáo ĐTM đảm bảo chất lượng thì việc quy định các tiêu chí, cơ sở xác định chất lượng của một bản báo cáo là thực sự cần thiết. Hơn nữa, thúc đẩy hơn sự tham gia của cộng đồng vào báo cáo ĐTM. Cần phải xác định rõ nguyên tắc và cơ thế tham gia của cộng đồng và phải đảm bảo sự tham gia này trong cả ba giai đoạn lập, thẩm định và giám sát thực hiện báo cáo ĐTM. Xác định rõ thành phần đại diện cho cộng đồng dân cư là những ai, trình độ học vấn như thế nào, có đảm bảo được việc truyền tải những nguyện vọng của toàn bộ dân cư hay không. Trong hướng dẫn quy trình thực hiện ĐTM, cần quy định rõ về trách nhiệm và chế tài đối với chủ đầu tư, cơ quan thẩm quyền về tiếp nhận và phản hồi thông tin. Công khai địa chỉ liên lạc của cá nhân, cách thức liên lạc với tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm phản hồi thông tin và quy định thời hạn phản hồi. Xây dựng cơ chế giám sát cụ thể và những phát hiện trong quá trình giám sát phải được báo cáo cho cơ quan quản lý nhà nước để có biện pháp xử lý phù hợp, kịp thời.
Với người có chuyên môn và nghĩa vụ phải lập báo cáo ĐTM, pháp luật cần có quy định cụ thể đối với việc thi sát hạch, quản lý chứng chỉ đối với những người có chứng chỉ hành nghề lập báo cáo ĐTM. Cần quy định chặt chẽ về chủ
thể lập báo cáo ĐTM, quy định mỗi báo cáo do một cá nhân có chứng chỉ hành nghề chịu trách nhiệm để nội dung báo cáo được thống nhất và hơn hết là việc chịu trách nhiệm về báo cáo đó, tránh tình trạng chịu trách nhiệm tập thể mà không có người phải chịu trách nhiệm chính.
Hội đồng thẩm định và phê duyệt cũng cần phải nghiêm ngặt hơn để đảm bảo những báo cáo ĐTM có chất lượng. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền cần kiên quyết không phê duyệt những báo cáo ĐTM không khả thi và dự án không được cấp giấy phép đầu tư, giấy phép đăng kí kinh doanh. Cần có sự độc lập, rõ ràng giữa hội đồng thẩm định và cơ quan phê duyệt. Như Pháp luật Trung Quốc quy định rất chặt chẽ về vấn đề này, cụ thể, đối với mỗi báo cáo ĐTM, hội đồng thẩm định sẽ được thành lập dựa trên lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách, nghiêm cấm mọi tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp giữa chủ dự án và thành viên hội đồng để tránh tình trạng tham nhũng xảy ra. Đây cũng là một trong những chính sách pháp luật khá hay mà Việt Nam nên phát triển. Không những vậy, pháp luật Trung Quốc còn quy định tách bạch giữa trách nhiệm của người lập báo cáo ĐTM, người thẩm định và người phê duyệt. Theo đó, người lập báo cáo ĐTM sẽ bị tước thẻ hành nghề nếu có sai sót trong quá trình lập. Thành viên hội đồng thẩm định cũng sẽ bị loại ra khỏi danh sách của Bộ BVMT nếu có sai sót trong quy trình hoặc nội dung báo cáo thẩm định hoặc báo cáo ĐTM…26
Quy định về quản lý, xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải công nghiệp.
Hiện nay, Nghị định 38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu, Thông tư 36/2015/TT-BTNMT về quản lý chất thải nguy hại đã có những quy định chung về nguyên tắc, quá trình quản lý chất thải, nước thải và khí thải đặc biệt là chất thải nguy hại. Do vậy, cần ban hành những văn bản pháp luật chuyên biệt quy định về vấn đề quản lý và xử lý chất thải, nước thải và khí thải trong các KCN, khu kinh tế, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Việc quy định vậy sẽ
26 Nguyễn Minh Đức, Hoàn thiện pháp luật về ĐTM, ĐMC của Việt Nam nhìn từ kinh nghiệm luật pháp Trung Quốc, Theo bản tin Chính sách Tài nguyên- Môi trường- Phát triển bền vững số 12/PanNature, http://www.thiennhien.net/2014/03/21/hoan-thien-phap- luat-ve-dtm-dmc-cua-viet-nam-nhin-tu-kinh-nghiem-luat-phap-trung-quoc/, truy cập 8:00 ngày 30/4/2016.
giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng áp dụng và việc thực hiện pháp luật mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các ban ngành nên đưa ra những tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với điều kiện kinh tế và sự phát triển khoa học- kỹ thuật hiện nay để đảm bảo các quy chuẩn đấy thiết thực hơn, các doanh nghiệp có thể đáp ứng được.
Các cơ quan có thẩm quyền cần phối hợp để ban hành một quy chế quản lý chất thải riêng. Đây sẽ là cơ sở để việc quản lý chất thải một cách thống nhất, hiệu quả và triệt để. Đồng thời khuyến khích, đầu tư áp dụng các công nghệ thân thiện với môi trường trong việc tái sử dụng chất thải để biến những thứ gây hại thành những thứ có ích cho mọi người, thân thiện với môi trường. Về vấn đề này, có thể thấy trên thế giới nhiều quốc gia đã sử dụng và xây dựng khá hiệu quả công nghệ tái sử dụng nước thải. Ví như ở Singapore, chính sự khan hiếm nước sạch đã khiến quốc đảo này phải phát triển công nghệ tái sử dụng nước thải và họ đã đạt được những bước tiến đáng kể. Để làm được điều này, việc tái chế nước thải phải trải qua các giai đoạn khác nhau gồm: xử lý ở các nhà máy khử muối, hệ thống hứng nước mưa tiêu chuẩn và sau đó là hệ thống “tái chế” nước thải. Từ một nguồn nước thải vô ích có khi còn gây hại cho môi trường giờ lại trở thành một một nguồn nước có ích, cung cấp nước sạch cho đất nước. Đây là mô hình khá mới mẻ trong việc bảo vệ môi trường ở Singapore và nó sẽ là một trong những chiến lược cải thiện môi trường và phát triển đất nước mà nhiều quốc gia hướng tới, trong đó có Việt Nam. Do vậy để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng sản phẩm tái chế, giảm sự lãng phí cho nền kinh tế thì ngoài việc đầu tư xây dựng hệ thống tái chế, các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này cũng cần được ban hành để thúc đẩy việc tái sử dụng chất thải ví dụ như tại Nhật Bản có Luật xúc tiến sử dụng tài nguyên tái chế (1992); Luật xúc tiến thu gom, phân loại, tái chế các loại bao bì (1997)… Ngoài việc xử lý chất thải bằng việc đốt hay tái chế thì ở Nhật Bản còn có một cách xử lý rất độc đáo, đó là công cuộc tạo thêm đất bằng rác thải thay vì phải tốn thêm đất để chôn rác. Đây cũng là một phương pháp hay mà Nhà nước nên hướng tới trong tương lai để giảm thiểu phần nào lượng rác thải ra môi trường.