Khái Niệm Quản Lý Rủi Ro Trong Kinh Doanh Ngân Hàng


mất uy tín, cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên, kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong khâu thanh toán.

+ Rủi ro tín dụng làm cho lợi nhuận suy giảm: Hoạt động tín dụng tạo ra trên 50% tài sản có của một ngân hàng thương mại, đó là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Do vậy nếu có rủi ro thì tài sản có của ngân hàng giảm sút và lợi nhuận của ngân hàng giảm sút, ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông.

+ Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến phá sản: Nếu những tác động của rủi ro tín dụng trên 3 phương diện nêu trên không được khắc phục và cứ phát triển đến một độ nào đó sẽ đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản.

1.1.2.4. Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán[7].

Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, thì ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản có thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường, ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu đủ để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, bởi vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hàng ngày ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hàng ngày và trong trường hợp thiếu hụt tiền


mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong trường hợp dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh chung trên, hầu hết các ngân hàng đều phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là, ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay cả số tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ mạt vì ngân hàng không có đủ thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện thương lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong số tài sản có độ thanh khoản thấp bao gồm các khoản tín dụng cấp cho các công ty nhỏ. Trong trường hợp rủi ro thanh khoản ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những người gửi tiền đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả toàn bộ tiền gửi của họ thì dẫn đến ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với rủi ro phá sản. Như vậy, rủi ro thanh khoản ở mức độ nghiêm trọng là một trong những nguyên nhân dẫn đến phá sản của các ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

1.1.2.5. Rủi ro trong các phương thức thanh toán quốc tế

Trong số các nghiệp vụ ngoại bảng, thì thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam là nghiệp vụ quan trọng nhất, có tốc độ tăng trưởng mạnh, mang lại cho ngân hàng khoản thu phí ngày một tăng; thông qua nghiệp

Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế - 3


vụ thanh toán quốc tế để chắp nối phát triển các nghiệp vụ khác như mua bán ngoại tệ, bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ tài khoản, tín dụng... Do đó, nghiệp vụ thanh toán quốc tế có thể được xem là nghiệp vụ ngoại bảng đặc trưng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán quốc tế cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro do quan niệm cho rằng hoạt động ngoại bảng nói chung, thanh toán quốc tế nói riêng mang lại thu nhập hấp dẫn nhưng ngân hàng không hề phải bỏ vốn, càng làm cho họ chủ quan lơ là, bất chấp những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào.‌

Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu mà các tổ chức, doanh nghiệp thường xuyên sử dụng với sự trợ giúp của ngân hàng là phương thức chuyển tiền, phương thức nhờ thu và phương thức tín dụng chứng từ.

1.2. Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

- Khái niệm 1: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là việc sử dụng đồng thời các công cụ, kỹ thuật và quy trình cần thiết để thực hiện chiến lược kinh doanh các sản phẩm ngân hàng.

- Khái niệm 2: Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng đó là quá trình xác định, đo lường rủi ro; Đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro; Thực hiện quá trình kiểm soát rủi ro và báo cáo.

1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

Quản lý rủi ro nói chung được xác định là một loạt các chính sách được ban hành nhằm theo dõi các giao dịch và các hoạt động có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng, và đề ra các biện pháp hữu hiệu để xác định, kiểm soát và giảm thiểu được những rủi ro này. Như vậy, quản lý rủi ro và đặc biệt là quản lý rủi ro trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng giúp bảo vệ ngân hàng, các cổ đông và người gửi tiền.


Có một cách nói khác nữa về quản lý rủi ro đó là: Quản lý rủi ro là quá trình chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước. Chấp nhận rủi ro là trung tâm của hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà Ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng.

Tại Việt nam hiện nay ngành kinh doanh ngân hàng đang phát triển hết sức nhanh chóng. Sự phát triển này đồng nghĩa với việc các ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa người tiết kiệm tiền và người đi vay tiền, các ngân hàng cạnh tranh với nhau thông qua việc cung cấp các dịch vụ, tiện ích cho khách hàng. Để đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, tạo ra những thuận lợi để cạnh tranh với các ngân hàng khác, các ngân hàng thương mại phải chấp nhận rủi ro, tuy nhiên chấp nhận ở mức độ nào lại là một câu hỏi, điều này cần phải có quản lý rủi ro trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Xu hướng của các ngân hàng hiện đại là chuyên môn hoá, là giao dịch một cửa, tức là có người thì chuyên bán hàng, nhiệm vụ của họ là bán được càng nhiều càng tốt, tức là cho vay càng nhiều càng tốt, như vậy họ có thể bỏ qua những yếu tố, chi tiết cần thiết khi quyết định một khoản vay, dẫn đến rủi ro. Một tâm lý thường thấy là giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng thường có mối quan hệ thân thiết do quá trình quan hệ lâu dài, mối quan hệ này là đương nhiên vì có như vậy họ mới hiểu khách hàng và cung cấp các sản phẩm phù hợp, chính sự thân thiết này đôi khi họ bỏ qua những chi tiết cho là không cần thiết nhưng lại có thể gây ra rủi ro, ví dụ như thiếu một vài giấy tờ, thiếu một vài thông tin ... Do vậy cần phải có bộ phận kiểm soát những người bán hàng này, đây là một phần của quản lý rủi ro các sản phẩm trong kinh doanh ngân hàng nói chung.


Các sản phẩm kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt nam hiện nay hầu hết đều chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường kinh doanh, chu kỳ, ngành kinh tế .., do vậy cần phải có sự nghiên cứu đánh giá để hạn chế các rủi ro có thể phát sinh.

Dù có các biện pháp hữu hiệu đến đâu để giảm thiểu rủi ro thì rủi ro vẫn có thể xảy ra, do vậy cần phải có dự phòng đủ vốn cho những rủi ro này để tránh sự sụp đổ của ngân hàng, đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của quản lý rủi ro trong các hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Qua những lý do trên đây ta thấy quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là thực sự cần thiết đối với các ngân hàng thương mại hiện nay.

1.2.3. Nội dung quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

1.2.3.1. Phân tích xác định rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

Người quản lý rủi ro trong kinh doanh ngân hàng phải phân tích và xác định được loại rủi ro dẫn đến tổn thất cho ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra các biên pháp quản lý rủi ro phù hợp. Ví dụ, với hoạt động phổ biến và tạo ra tới 50% tổng tài sản có cho ngân hàng như hoạt động tín dụng thì thông thường rủi ro đối với hoạt động tín dụng được xác định có các loại sau đây:


RỦI RO TÍN DỤNG


Rủi ro giao dịch

Rủi ro danh mục


Rủi ro Lựa chọn

Rủi ro bảo đảm

Rủi ro Nghiệp

Rủi ro Nội tại

Rủi ro Tập trung

Sơ đồ1.1: Các loại rủi ro tín dụng trong kinh doanh ngân hàng

Nguồn: theo Joel Bessis, Risk Management in Banking [26]


Qua sơ đồ trên ta thấy rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch (Transaction risk).

Rủi ro danh mục được phân thành rủi ro nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk). Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành kinh tế. Chẳng hạn, ngành xây dựng vẫn được xem là ngành có rủi ro cao do đặc trưng kinh doanh là vốn đọng nhiều ở các công trình, chi phí xây dựng cơ bản dở dang cao, thời gian thu hồi vốn chậm. Do vậy, đối với các dự án xây dựng, ngân hàng thường phải phân tích rất kỹ lưỡng về dòng tiền, thời gian hoàn vốn và tài sản đảm bảo cho khoản vay trước khi quyết định cho vay. Rủi ro tập trung là mức dư nợ cho vay được dồn cho một khách hàng, một số ngành kinh tế hoặc một số loại cho vay hoặc một khu vực địa lý. Rủi ro này thường phát sinh đối với các trường hợp cho vay tổng công ty bao gồm nhiều công ty con trực thuộc hay cho vay tập trung quá nhiều vào một ngành kinh tế, chẳng hạn ngành kinh doanh gỗ nhập khẩu. Bất kỳ một ảnh hưởng có chiều hướng xấu nào đến ngành nghề kinh doanh làm suy giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp đều có thể ảnh hưởng đến tình hình thanh toán nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng. Phản ứng mang tính dây chuyền này sẽ gây ra tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi với tỷ lệ cao cho ngân hàng do tập trung cho vay quá nhiều các doanh nghiệp kinh doanh gỗ.

Rủi ro giao dịch có 3 thành phần: Rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro này có nguyên nhân chủ yếu từ năng lực và trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng sau khi nhận hồ sơ từ khách hàng sẽ tiến hành thẩm định, đánh giá, phân tích về từ cách pháp nhân, năng lực pháp lý, về ngành nghề kinh doanh, công tác và khả năng tài chính của khách hàng.


Những yếu tố này có vai trò rất quan trọng trong việc quyết định có cho vay hay không. Bất kỳ một sự đánh giá sai, lệch lạc nào của cán bộ tín dụng đều có thể dẫn đến rủi ro mất vốn cho ngân hàng.

Rủi ro bảo đảm xuất phát từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng vay, các loại tài sản đảm bảo và mức an toàn của nó. Trong trường hợp khách hàng vay có biểu hiện chậm trả, chậm thanh toán nợ hoặc có thái độ không hợp tác với ngân hàng trong việc trả nợ vay thì lúc đó nguồn trả nợ phụ là tài sản đảm bảo được xem xét tới. Hợp đồng tín dụng là cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến món vay. Ngân hàng có quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ. Tài sản đảm bảo là nhà đất có độ an toàn cao hơn so với tài sản đảm bảo là xe, máy móc hay hàng hóa. Thực tế đã có nhiều ngân hàng cho vay mua ô tô trả góp với tài sản đảm bảo là chính chiếc xe hình thành từ vốn vay và đã có rủi ro khách hàng bán chiếc xe - tài sản đảm bảo đó đi mà ngân hàng không kiểm soát được.

Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay như xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng để định hướng cho việc thực hiện cho vay và kiểm soát danh mục cho vay, bao gồm cả việc sử dụng xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề. Một ngân hàng hoạt động tốt là ngân hàng có quy trình hoạt động rõ ràng, có hệ thống báo cáo, xếp hạng rủi ro chặt chẽ và có bộ phận xử lý nợ có chuyên môn. Thực tế nhiều ngân hàng thương mại có quy mô còn nhỏ vẫn chưa có bộ phận xử lý nợ mà toàn bộ các công việc này đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Quy trình cho vay đối với một số sản phẩm mới còn chưa rõ ràng, thậm chí còn chưa có. Những yếu tố này dẫn đến tình trạng cho vay sai so với quy định của ngân hàng Nhà nước và nguy cơ mất vốn cho ngân hàng.


Như vậy, để quản lý tốt các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng trước hết người quản lý rủi ro phải phân tích và xác định được rủi ro có thể phát sinh trong sản phẩm kinh doanh đó là gì, nguyên nhân gây ra những rủi ro và bản chất của chúng. Từ đó, việc tìm ra những biện pháp khắc phục mới thực sự hữu hiệu.

1.2.3.2. Đánh giá và đo lường rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

Việc đánh giá các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng dựa vào các mô hình định tính và định lượng

- Mô hình định tính: Là phương pháp truyền thống, dựa vào đánh giá chủ quan của cán bộ ngân hàng căn cứ vào việc trả lời một số câu hỏi để phân loại khách hàng, cụ thể như sau:

*Khách hàng loại A.

Về chất lượng quản lý, là khách hàng có uy tín rộng khắp, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả và thực sự có năng lực.

Về tình hình tài chính, có chất lượng thông tin tài chính tốt, lành mạnh, các tài khoản được kiểm toán tuyệt đối do các kiểm toán viên quốc tế đảm nhiệm và thường xuyên có số dư tiền gửi lớn tại ngân hàng. Doanh thu của công ty luôn ở mức cao và có tốc độ tăng trưởng liên tục. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu thấp, các tài sản cố định có giá trị thực. Khả năng thanh toán nợ tốt, xu hướng đạt doanh thu lớn, dòng tiền lưu chuyển lớn và có lãi gộp, có đầy đủ các thông tin về các khoản có thể thua lỗ và không có thua lỗ và có sự hỗ trợ rất lớn từ nhiều nguồn khác nhau.

Về môi trường kinh doanh, có môi trường kinh tế chính trị-xã hội cực kỳ an toàn và ổn định. Tầm quan trọng của khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế quốc dân, có viễn cảnh kinh doanh khá thuận lợi. Hoạt động kinh doanh của khách hàng chiếm thị phần khá lớn trong nội bộ ngành và có uy tín,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023