thiểu tổn thất do RRTD gây nên. Bằng việc yêu cầu các TSĐB có giá trị cao hơn giá trị của khoản vay, việc thẩm định TSĐB phải được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách do ngân hàng trực tiếp chỉ định và làm việc, định kì hằng năm hoặc hàng quý ngân hàng tiến hành thẩm định lại giá trị TSĐB, mục đích của việc làm này đó là việc ngân hàng có thể thu hồi được một phần nợ từ TSĐB nếu như khoản vay khách hàng không thể trả được nợ (RRTD xảy ra). Hoặc ngân hàng tiến hành trích lập dự phòng để chống đỡ với những tổn thất khi xảy ra RRTD. Hiện tại phương pháp trích lập dự phòng theo Điều 3 của Thông tư 02/ 2019/TT-NHNN ở mức 0%, 5%, 20%, 50%, 100% cho các nhóm nợ từ 1 đến 4 và tại Điều 13 của Thông tư 02/ 2019/TT-NHNN dự phòng chung ở mức 0,75% cho toàn bộ các khoản nợ, đặc biệt, một số ngân hàng đã tự xây dựng cho mình mô hình nội bộ theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để từ cho điểm đánh giá các khoản cấp tín dụng của mình. Tuy nhiên các biện pháp này chưa thật sự chạm đến tiêu chuẩn quốc tế về đo lường RRTD, chúng ta sẽ đề cập sâu hơn về vấn đề này trong phần thực trạng quản trị RRTD của các ngân hàng tại Việt Nam. Điều này đã góp phần giúp ngân hàng hạn chế được phần nào thiệt hại do rủi ro mang lại. Từ những biện pháp TSĐB hay trích lập dự phòng đã giúp ngân hàng thực hiện bước tiếp theo trong công tác quản trị rủi ro đó chính là tài trợ rủi ro.
(4) Tài trợ rủi ro tín dụng:
Một khi RRTD xảy ra, thì các ngân hàng phải áp dụng mọi biện pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do rủi ro gây ra. Thông thường hoạt động tài trợ rủi ro thườngđược phân chia thành hai nhóm là tự khắc phục rủi ro hoặc là chuyển giao rủi ro. Hoạt động tự khắc phục rủi ro được hiểu là phương pháp mà khi rủi ro xảy ra thì ngân hàng tự khắc phục những tổn thất thông qua việc sử dụng các quỹ dự phòng hoặc sử dụng vốn tự có của mình khi xảy ra những rủi ro ngoài dự kiến. Trong trường hợp ngân hàng không thể tự mình khắc phục được những rủi ro gây ra thì ngân hàng có thể tiến hành chuyển giao rủi ro bằng cách nhờ các nguồn lực bên ngoài để khắc phục rủi ro nhờ chuyển giao rủi ro bằng cách bán các khoản nợ, khoản đền bù cho các hãng bảo hiểm...
1.2.4.4. Xử lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng trong tổ chức tín dụng là khó tránh khỏi. Có thể tổ chức tín dụng đã phòng ngừa rất tốt nhưng rủi ro tín dụng vẫn tồn tại. Vấn đề được đặt ra đối với tổ chức tín dụng là xử lý các khoản rủi ro tín dụng.Tổ chức tín dụng có thể lựa chọn những cách xử lý rủi ro tín dụng như sau:
(1) Cơ cấu thời gian trả nợ cho khách hàng:
Tổ chức tín dụng có thể điều chỉnh kỳ hạn trả nợ của khoản vay hoặc kéo dài thời hạn của khoản vay tạo điều kiện cho khách hàng có thêm thời gian để thực hiện hoàn trả khoản vay. Nếu khoản vay được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khách hàng có thể tạm thời tránh được áp lực trả nợ, tập trung vào sản xuất kinh doanh còn tổ chức tín dụng sẽ có cơ hội để thu nợ của khách hàng khi đến hạn theo lịch trả nợ đã được cơ cấu lại. Tuy nhiên, sử dụng biện phát này đồng nghĩa với việc nợ xấu của tổ chức tín dụng sẽ tăng
(2) Miễn giảm lãi vay:
Trong điều kiện khách hàng gặp khó khăn về tài chính, thì việc tổ chức tín dụng miễn giảm lãi vay là một trong các biện pháp linh hoạt khuyến khích khách hàng trong việc nỗ lực trả nợ gốc cho tổ chức tín dụng.
(3) Tiếp tục cấp tín dụng có điều kiện cho khách hàng:
Biện pháp này được thực hiện trên cơ sở có sự cam kết giữa hai bên khách hàng và tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng bằng việc tiếp tục cấp tín dụng cho khách hàng để giúp khách hàng có vốn kinh doanh vượt qua thời điểm khó khăn hiện tại. Nhưng đổi lại, khi có nguồn thu ổn định khách hàng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng bao gồm cả nợ mới và cũ trên cơ sở thanh toán đầy đủ và đúng hạn nợ mới, trích một phần lợi nhuận từ phương án vay vốn để trả nợ cũ.
(4) Chuyển nợ thành vốn góp:
Biện pháp này sẽ tạo cơ hội để thu hồi các khoản nợ khó đòi giúp tổ chức tín dụng giảm nợ xấu, làm sạch báo cáo tài chính. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế. Thông thường người đi vay có nhu cầu chuyển nợ đi vay sang làm vốn góp thì những khoản nợ vay này thường không có tài sản đảm bảo và khó có thể thu hồi được.Vì vậy tổ chức tín dụng chỉ nên tiến hành chuyển nợ vay thành vốn góp tại những doanh nghiệp tiềm năng hay làm ăn có lãi để đạt được hiệu quả vốn góp.
(5) Phát mại tài sản đảm bảo:
Biện pháp này được thực hiện với khoản vay có tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo là cơ sở để tổ chức tín dụng thu hồi vốn tốt nhất khi khách hàng không trả được nợ vay. Trong trường hợp này tổ chức tín dụng sẽ thực hiện các quyền của chủ nợ nhằm thu hồi tối đa khoản nợ đã cho vay, giảm thiểu tối đa các thiệt hại cho tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng sẽ quyết định bán tài sản theo một trong hai hình thức là tự bán đấu giá hoặc bán đấu giá qua trung tâm đấu giá tài sản. Sau khi thu hồi nợ từ việc phát mại tài sản, trong trường hợp tài sản không trả được hết nợ thì tổ chức tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi và tiến hành thu nợ khoản vay. Sử dụng biện pháp này để thu hồi nợ tốn nhiều thời gian, thủ tục rườm rà, phức tạp đòi hỏi tổ chức tín dụng phải tuân thủ đúng quy định, chế độ của Nhà nước đồng thời phải tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các ban ngành, đặc biệt ý kiến ủng hộ của các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, tòa án,... từ đó đưa ra các biện pháp mạnh để thu các khoản nợ.
(6) Sử dụng quỹ dự phòng:
Một trong những nội dung quan trọng nhằm tháo gỡ khó khăn cho các tổ chức tín dụng, trong việc phát mại tài sản thế chấp không đủ bù đắp vốn vay hoặc tài sản thế chấp không xử lý được, đó là việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng theo Thông tư số 02/2012/TT- NHNN. Theo đó, dư nợ cho vay được phân loại và được trích lập quỹ bù đắp rủi ro hàng tháng, số tiền trích rủi ro được tính vào chi phí của tổ chức tín dụng. Việc sử dụng quỹ dự phòng được thực hiện theo Điều 11, Mục 3, Văn bản hợp nhất Số 22/VBHN-NHNN ngày 04/06/2014 Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Các thông tư này tạo hành lang pháp lý trước hết cho chính các tổ chức tín dụng bằng nguồn trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, tạo ra nguồn tài chính nhằm vào việc xử lý nợ xấu được thực hiện hàng năm, nhờ đó nợ xấu giảm đi.
(7) Bán nợ:
Đây là một trong những phương pháp khá hiệu quả trong công tác xử lý thu hồi nợ, giúp tổ chức tín dụng sớm thu hồi lại vốn của mình, giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Các khách hàng thuộc nhóm đối tượng này đều là khách
hàng không còn khả năng trả nợ. Tuy nhiên, khi thực hiện bán các khoản nợ xấu này, tổ chức tín dụng phải chấp nhận bán với giá thấp hơn giá trị khoản nợ. Để thực hiện nhiệm vụ này, các tổ chức tín dụng thường thành lập một tổ chức có tên gọi là Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản. Công ty này sẽ giải quyết các khoản nợ không chỉ của bản thân tổ chức tín dụng nó trực thuộc mà nó còn tiếp nhận và giải quyết các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp khác giúp cho nguồn vốn trong nền kinh tế lưu thông trôi chảy hơn.
(8) Khởi kiện và thu nợ thông qua cơ quan thi hành án:
Khởi kiện là biện pháp đòi nợ cuối cùng khi đã sử dụng những biện pháp khác để thuyết phục, đôn đốc khách hàng trả nợ nhưng không có hiệu quả. Những khách hàng buộc phải giải quyết thu hồi nợ bằng phương pháp khởi kiện là những khách hàng thật sự không có thiện chí trả nợ, phối hợp cùng tổ chức tín dụng tìm ra hướng xử lý hoặc khả năng phục hồi để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh là rất thấp. Trong trường hợp này Tòa án sẽ can thiệp buộc khách hàng trả nợ. Tuy nhiên biện pháp này đòi hỏi thủ tục rườm rà, thời gian kéo dài và hiệu quả không cao, nên ít khi được sử dụng.
1.2.5. Tiêu chí đánh giá công tác quản lý RRTD
Thông thường để đánh giá rủi ro tín dụng, các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng thường sử dụng chỉ tiêu nợ quá hạn và kết quả phân loại nợ.
1.2.5.1 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng hạn, không được phép và không đủ tiêu chuẩn để được gia hạn nợ. Công thức tính nợ quá hạn như sau:
Dư nợ quá hạn | x 100% | |
Hệ số nợ quá hạn | = | |
Tổng dư nợ |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Sài gòn Hà Nội- SHB Chi nhánh Quảng Ninh - 2
- Khái Niệm Về Hoạt Động Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Mô Hình Quản Trị Rủi Ro
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Shb Chi Nhánh Quảng Ninh
- Thị Phần Huy Động Vốn Của Shb Quảng Ninh Giai Đoạn 2016-2019
- Tỷ Trọng Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân Trong Tổng Dư Nợ Cho Vay Của Chi Nhánh (2016-2019).
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Để đảm bảo quản lý chặt chẽ nợ quá hạn, các ngân hàng thương mại thường chia nợ quá hạn thành 3 nhóm sau:
+ Nợ quá hạn đến 180 ngày, có khả năng thu hồi.
+ Nợ quá hạn từ 181 ngày – 360 ngày, có khả năng thu hồi.
+ Nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên (nợ khó đòi).
1.2.5.2. Phân loại nợ
Trên thực tế, có nhiều ngân hàng thương mại áp dụng chia thành 5 nhóm. Về phân loại nợ, theo quy định của ngân hàng nhà nước bao gồm các nhóm nợ như sau:
- Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn:
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 1 theo quy định.
- Nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày.
+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn lần đầu.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2 theo quy định.
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
+ Các khoản nợ gia hạn tới hạn trả nợ lần đầu.
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng thanh toán lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo quy định.
- Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần hai.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo quy định
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
+ Các khoản nợ cơ cấu lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai.
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên.
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
+ Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 5 theo quy định.
Bên cạnh đó, quy định tại Khoản 2, Điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN Ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng cũng nêu rõ thời gian thử thách để thăng hạng nợ (ví dụ từ nhóm 2 lên nhóm 1…) là 6 tháng đối với khoản nợ trung dài hạn và 03 tháng đối với khoản nợ ngắn hạn từ ngày khách hàng trả đầy đủ gốc và lãi của khoản vay bị quá hạn hoặc khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Và toàn bộ dư nợ của khách hàng tại các tổ chức tín dụng được phân vào cùng một nhóm nợ.
* Nợ xấu: Là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 và có đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng khi các cam kết này đến hạn.
+ Tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến có khả năng ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi.
+ Tài sản đảm bảo được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường là những khoản nợ đã được gia hạn nợ, hoặc những khoản nợ quá hạn trên 90 ngày.
Một tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu dưới 5% được coi là nằm trong giới hạn cho phép, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá tỷ lệ 5% thì tổ chức đó cần phải xem xét, rà soát lại danh mục đầu tư của mình một cách đầy đủ, chi tiết và thận trọng hơn.
Về trích lập dự phòng rủi ro, hiện tại ở Việt Nam, việc trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Quy định tất cả các tổ chức tín dụng họat động tại Việt Nam (trừ Ngân hàng Chính sách xã hội) phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng.Mục đích của việc sử dụng dự phòng là để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ của tổ chức tín dụng. Xét về phương pháp và hình thức, đự phòng rủi ro chỉ tính theo dư nợ gốc của khách hàng và được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Theo đó, yêu cầu trích lập 2 loại dự phòng là dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là loại dự phòng được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ mà hiện nay các tổ chức tín dụng đang thực hiện và được quy định rõ hơn theo Quyết định 493. Ngoài ra, Quyết định 493 yêu cầu tổ chức tín dụng lập dự phòng chung cho tất cả các khoản nợ của mình bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo cách phân loại tại Quyết định 493. Tuy nhiên, tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với các mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm (Theo Điều 7 của Quyết định 493)
Tỷ lệ trích lập và công thức tính dự phòng cụ thể: Cho dù được phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4, 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Quyết định 493 đưa ra cách tính số tiền dự phòng bằng công thức như sau:
R = max {0, (A-C)} x r.
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích. A: Giá trị khoản nợ
C: Giá trị tài sản đảm bảo (nhân với tỷ lệ % do Quyết định 493 quy định đối với từng loại tài sản đảm bảo).
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Như vậy, số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản đảm bảo. Nếu giá trị tài sản đảm bảo sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ thì số tiền dự phòng cũng bằng không, có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không phải lập dự phòng cho khoản nợ đó.
1.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro của ngân hàng thương mại
1.2.6.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng cho vay
Các nhân tố nội tại của NHTM có ảnh hưởng quan trọng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng của NHTM bao gồm:
(1) Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng chỉ phát huy tác dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc ban hành và vận dụng. Việc xây dựng chính sách tín dụng không hợp lý: như xây dựng chính sách chưa khoa học, chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường, mô hình thích hợp cho việc lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng để từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn đối với khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro hầu như chưa được các NHTM đầu tư xây dựng... Điều này sẽ tạo khó khăn cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý trong việc ra quyết định tín dụng an toàn và hiệu quả.
(2) Quy trình tín dụng nội bộ
Thông tin tín dụng chỉ phát huy tác dụng khi được xây dựng trên cơ sơ thu thập thông tin về khách hàng, ngành nghề, môi trường kinh tế, các văn bản mới được ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những cảnh báo về các ngành hàng mà ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống. Tuy nhiên, lại tồn tại tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các NHTM và khách hàng. Điều này dẫn đến