nghiệp được củng cố đẩy mạnh bởi các luật lệ bên ngoài, các quy tắc, quy định điều hành giúp tạo ra một sân chơi bình đẳng và kỷ luật nghiêm với những cách hành xử nội bộ thiếu minh bạch và công bằng, bất kể là từ cấp quản lý hay HÐQT. Các động lực nội bộ (xác định mối quan hệ giữa những thành viên chủ chốt trong công ty) và các động lực bên ngoài (điển hình như vấn đề chính sách, pháp luật, cơ quan điều hành và thị trường) cùng chi phối cách quản trị, hành xử và hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyên tắc quản trị doanh nghiệp được công nhận khá rộng rãi do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đưa ra năm 2004 bao gồm 6 nhóm nguyên tắc cơ bản như:
(i) Ðảm bảo nền tảng cho một khuôn khổ quản trị doanh nghiệp hiệu quả: khung quản trị doanh nghiệp nên thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả của thị trường, phù hợp với các luật lệ, nguyên tắc và phân tách rõ ràng các nhóm trách nhiệm giữa các cơ quan giám sát, cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp.
(ii) Quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu chính: khuôn khổ quản trị doanh nghiệp phải bảo vệ và hỗ trợ cho việc thực hiện các quyền chính đáng của cổ đông.
(iii) Ðối xử công bằng với các cổ đông: khung quản trị doanh nghiệp nên bảo đảm cơ chế đối xử công bằng với tất cả các cổ đông của công ty, bao gồm cả các cổ đông thiểu số và cổ đông nước ngoài. Tất cả các cổ đông đều phải có cơ hội nhận được sự đền bù hiệu quả nếu quyền lợi của họ bị vi phạm.
(iv) Vai trò của các nhóm quyền lợi liên quan đến doanh nghiệp: khung quản trị doanh nghiệp phải thừa nhận quyền lợi của các nhóm lợi ích liên quan (không chỉ gồm cổ đông mà cả nhân viên doanh nghiệp, khách hàng, nhà cung cấp, nhà đầu tư…) được xác định theo luật định hoặc thông qua các cam kết nội bộ; đồng thời, khuyến khích sự hợp tác năng động giữa doanh nghiệp và các nhóm lợi ích liên quan trong quá trình tạo ra tài sản, việc làm và tính bền vững ổn định của các doanh nghiệp có tài chính lành mạnh.
(v) Tính công khai và minh bạch: quản trị doanh nghiệp phải đảm bảo công khai kịp thời và tương xứng các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp, bao gồm tình trạng tài chính, hoạt động, cơ cấu sở hữu và tình trạng quản trị của doanh nghiệp.
(vi) Trách nhiệm của HÐQT: khung quản trị doanh nghiệp phải đảm bảo có các chỉ đạo chiến lược và sự giám sát hiệu quả từ phía HÐQT với Ban điều hành và quản lý cấp cao, cũng như trách nhiệm của HÐQT với doanh nghiệp và các cổ đông.
Có thể bạn quan tâm!
- Xây Dựng Hệ Thống Công Nghệ Thông Tin Hỗ Trợ Cho Các Hoạt Động Thanh Tra, Giám Sát
- Thắt Chặt Quy Trình Quản Lý, Kiện Toàn Hệ Thống, Hoàn Thiện Cơ Cấu Quản Lý Rủi Ro
- Phát Triển Nguồn Nhân Lực Có Đủ Năng Lực Trình Độ Và Phẩm Chất Đạo Đức
- Lựa Chọn Lộ Trình Tự Do Hóa Tài Chính Thích Hợp
- Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 26
- Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 27
Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.
Năm 2010, Ủy ban Basel đã đưa ra trong Basel III các hướng dẫn sửa đổi, bổ sung phiên bản 2006 với 14 nguyên tắc quản trị NHTM cụ thể. Các nguyên tắc này tập trung vào giải quyết các vấn đề nổi cộm liên quan đến cơ chế phân bổ quyền hạn và trách nhiệm, cách thức mà các hoạt động của NHTM được điều hành quản trị bởi HÐQT và quản lý cấp cao, bao gồm việc làm thế nào HÐQT và quản lý cấp cao (i) thiết lập được các chiến lược và mục tiêu hoạt động của ngân hàng; (ii) xác định được dung sai rủi ro/ngưỡng chấp nhận rủi ro của ngân hàng; (iii) tổ chức hoạt động hàng ngày của ngân hàng; và (iv) bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền, đáp ứng các nghĩa vụ với cổ đông, quan tâm tới quyền lợi của các nhóm lợi ích liên quan khác, gắn hoạt động quản trị với kỳ vọng ngân hàng sẽ kinh doanh an toàn, hợp lý; nhất quán và tuân thủ quy định của pháp luật.
Thông qua việc duy trì một khung quản trị rủi ro hoạt động và hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ, hiệu lực, hiệu quả, quản trị NHTM mới có thể đạt được những mục tiêu chính như tính hiệu quả và hiệu năng của hoạt động ngân hàng, an toàn tài sản ngân hàng, tuân thủ với các luật lệ địa phương, tính liên tục của hoạt động kinh doanh, độ tin cậy của các kênh báo cáo, đảm bảo hành xử một cách hợp lý và có trách nhiệm với các nhóm lợi ích liên quan như khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên… Cụ thể hơn, hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt sẽ giúp NHTM hạn chế và giảm thiểu rủi ro đạo đức dưới các khía cạnh khác nhau như:
- Hạn chế và ngăn chặn các gian lận nội bộ: tổn thất do các sự kiện gian lận, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, giả mạo hồ sơ chứng từ, biển thủ tham ô tài sản ngân hàng, phá hoại tài sản ngân hàng, trộm cắp tống tiền… do nhân viên ngân hàng gây ra hoặc tiếp tay cho tội phạm;
- Hạn chế và ngăn chặn các gian lận bên ngoài do đối tượng bên ngoài thực hiện, nhưng cũng có nguyên nhân từ sự yếu kém trong quản trị nội bộ của ngân hàng, sơ hở hoặc trình độ năng lực kém của nhân viên ngân hàng);
- Giảm thiểu tác động tiêu cực của chính sách lao động và môi trường làm việc không hợp lý tới đạo đức nhân viên: khả năng tổn thất do ngân hàng không xử lý đúng quy định, không thỏa đáng các chính sách lương thưởng và nhân sự, không đảm bảo quyền lợi cho người lao động - một trong các nhóm lợi ích liên quan được đề cập ở trên trong quản trị doanh nghiệp;
- Hạn chế và giảm thiểu các rủi ro xuất phát từ khách hàng, sản phẩm dịch vụ và thực tiễn môi trường kinh doanh: khả năng tổn thất phát sinh từ các lỗi, sai sót không cố ý hoặc do sơ suất trong việc đáp ứng các trách nhiệm nghề nghiệp đối với khách hàng, hoặc không tuân thủ đúng các thực tiễn, các tiêu chuẩn thực hành của môi trường kinh doanh.
Để giảm thiểu các hành vi rủi ro đạo đức của cán bộ nhân viên, các ngân hàng cần có chế tài xử lý đối với những trường hợp vị phạm. Việc áp dụng các hình thức xử lý phải đủ mạnh, đủ khả năng răn đe để không tái diễn vi phạm, tránh việc áp dụng một cách hình thức, làm suy giảm tính nghiêm minh và mục tiêu của chế tài. Việc xử lý phải đúng người, đúng trách nhiệm, các hành vi vi phạm ở bộ phận nào thì bộ phận đó chịu trách nhiệm. Nhiều bộ phận liên quan trực tiếp đến một hành vi vi phạm thì các cá nhân trực tiếp gây ra hành vi vi phạm và các đơn vị đó đều bị xử lý. Tất cả các hành vi vi phạm đều áp dụng biện pháp giảm trừ lương kinh doanh, các khoản tiền thưởng của cá nhân vi phạm nhưng phải bảo đảm mức lương cơ bản theo quy định của Nhà nước; giảm trừ quỹ thu nhập, quỹ khen thưởng của đơn vị đối với đơn vị có hành vi vi phạm. Khi các hành vi vi phạm trong các mặt nghiệp vụ của ngân hàng được xác định là đã gây ra thiệt hại vật chất cho ngân hàng thì sẽ bị xử lý trách nhiệm vật chất theo Quy chế xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất của ngân hàng. Tương ứng với hành vi vi phạm sẽ áp dụng các hình thức xử lý thích hợp, tuỳ theo tính chất, mức độ ảnh hưởng của các hành vi đến uy tín, tài sản của Ngân hàng, Người có thẩm quyền có thể xem xét để áp dụng các hình thức xử lý phù hợp. Cá nhân lãnh đạo trực tiếp (cấp trưởng hoặc cấp phó) phải bị xem xét, xử lý trách nhiệm nếu có cấp dưới vi phạm bị xử lý.
Trường hợp cùng một hành vi vi phạm xảy ra tại nhiều bộ phận liên quan trực tiếp mà đều do một cá nhân gây ra thì cá nhân này sẽ bị áp dụng hình thức xử
lý cao nhất tương ứng với hành vi vi phạm. Các hình thức xử lý vi phạm từ mức độ thấp đến cao bao gồm:
(i) Giảm trừ lương kinh doanh;
(ii) Xử lý thông qua công tác thi đua, khen thưởng: Giảm trừ tiền thưởng, Hạ bậc thi đua, xếp loại không hoàn thành nhiệm vụ;
(iii) Xử lý kỷ luật: Khiển trách, Kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng hoặc chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn, Cách chức, Sa thải;
(iv) Xử lý thông qua tổ chức, điều hành: Thuyên chuyển công tác khác, Không xét bổ nhiệm, quy hoạch chức danh quản lý cấp cao hơn, Tạm dừng điều hành, Không bổ nhiệm, không bổ nhiệm lại, Miễn nhiệm;
(v) Hình thức xử lý khác: Nhắc nhở, Phê bình, Các hình thức xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Những trường hợp vi phạm dù nhỏ tại ngân hàng cũng phải được xử lý nghiêm khắc. Với những sai phạm nghiêm trọng, ngân hàng cần phải chủ động hợp tác với cơ quan pháp luật, đưa ra xử lý công khai.
3.2.2.9. Giải pháp nâng cấp và làm chủ hệ thống công nghệ thông tin
“Công nghệ thông tin cần được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng”. Đó là mục tiêu của chỉ thị 58/CT-TW của Bộ Chính trị trong kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Mô hình quản lý ngân hàng hiện đại theo nguyên tắc Basel chỉ có thể thành công khi giải quyết được vấn đề cơ chế trao đổi thông tin, đảm bảo sự phân tách các bộ phận chức năng để thực hiện chuyên môn hóa và nâng cao tính khách quan nhưng không làm mất đi khả năng nắm bắt và kiểm soát thông tin của bộ phận quản lý rủi ro. Hệ thống thông tin quản lý là một yếu tố then chốt hỗ trợ việc đưa ra các quyết định về quản lý rủi ro một cách chính xác, có hiệu quả. Trong quá trình hiện đại hóa công nghệ thông tin, NHTM cần phải xây dựng một hệ thống thông tin quản lý đầy đủ để nhận dạng, đo lường, giám sát, kiểm soát và báo cáo rủi ro. Muốn vậy, những thông tin trọng yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh cần phải được bộ phận quan hệ khách hàng cập nhật định kỳ và/hoặc đột xuất và chuyển tiếp
những thông tin này cho bộ phận quản lý rủi ro phân tích, đánh giá những rủi ro tiềm ẩn. Như vậy, sự vận hành của mô hình mới có thể thông suốt và giảm thiểu những e ngại của bộ phận quản lý rủi ro tín dụng trong các nhận định cấp tín dụng. Đồng thời, ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin và phân tích thông tin toàn diện, cung ứng nguồn thông tin chính xác, đáng tin cậy cho các bộ phận chuyên môn có liên quan. Các phân tích về ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đang được các ngân hàng bắt đầu thực hiện để xây dựng kho dữ liệu phân tích tín dụng nhưng chưa được đầy đủ và thiếu tính kết nối, hỗ trợ giữa các ngân hàng trong chia sẻ thông tin. Sự hợp tác một cách toàn diện giữa các ngân hàng trong xây dựng và chia sẻ cơ sở dữ liệu thông tin về doanh nghiệp, về ngành là con đường ngắn nhất để hoàn thiện hệ thống thông tin và giảm chi phí khai thác thông tin một cách hợp lý nhất. Trong thời gian tới ngân hàng cần tập trung nâng cấp và làm chủ lĩnh vực công nghệ tin học cụ thể như sau:
- Phát triển hệ thống công nghệ thông tin theo 3 mục tiêu cụ thể:
i) Tăng năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ với chất lượng cao;
ii) Hỗ trợ thông tin quản lý kinh doanh liên tục, kịp thời cho các cấp;
iii) Đảm bảo an toàn hệ thống khi vận hành.
- Xác định đầu tư phần mềm là quan trọng, mang tính quyết định đến hiệu quả của đầu tư công nghệ thông tin. Phát triển hệ thống công nghệ thanh toán tiên tiến và hệ thống giao dịch tự động nhằm đưa các hoạt động giao dịch của ngân hàng được thực hiện trên một nền kỹ thuật công nghệ hiện đại, đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng và vận hành an toàn; tiếp tục đầu tư phát triển mở rộng và nâng cao trình độ công nghệ đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo duy trì năng lực cạnh tranh, năng lực thể chế để phát triển ổn định và bền vững.
- Chuẩn hoá hệ thống báo cáo tại Hội sở chính và Chi nhánh trên cơ sở khai thác tối đa nguồn thông tin tại kho dữ liệu. Triển khai thực hiện dự án bảo mật mạng máy tính nhằm nâng cao độ an toàn, phát hiện các hành vi thâm nhập mạng máy tính trái phép, kiểm soát nội bộ chặt chẽ và đảm bảo an toàn cho giao dịch đến mức tối đa.
- Tập trung xem xét, phê duyệt các đề án trang bị kỹ thuật cần thiết để thực hiện kết nối các modul nghiệp vụ mới với hệ thống hiện hành. Xây dựng trung tâm
dự phòng nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh được liên tục, không bị gián đoạn, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro bất khả kháng trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin.
3.2.2.10. Chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền
Chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền định hướng nâng cao ý thức hành vi, đạo đức trách nhiệm đối với toàn bộ cán bộ nhân viên ngân hàng. Hơn bao giờ hết, ngành ngân hàng phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp và coi đó như một nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình tái cơ cấu.
Trước hết ngân hàng phải chú trọng xây dựng môi trường làm việc, trong đó, các cán bộ lãnh đạo thường xuyên đào tạo, hướng dẫn để nâng cao năng lực và kiến thức cho cán bộ cấp dưới, giúp phát hiện những rủi ro có thể xảy ra. Chương trình định hướng cho nhân viên mới, cảnh báo gian lận gây thiệt hại tới ngân hàng thế nào, trách nhiệm ra sao.
Cần chú trọng vào công tác truyền thông định kỳ cập nhật các thông tin liên quan tới các vụ việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong ngành ngân hàng cùng với những bài học kinh nghiệm để gửi tới toàn bộ cán bộ nhân viên.
Ngân hàng cần giáo dục “ý thức tập thể” cho cán bộ của mình, thấy rõ việc họ sẽ gây hậu quả nghiêm trọng như thế nào đến hoạt động của ngân hàng để họ xác định được ý thức làm việc vì “lợi ích của ngân hàng” là trên hết thay vì “lợi ích cá nhân”. Những vụ việc đã xảy ra trong thực tế cho thấy, cán bộ ngân hàng phải luôn có ý thức bảo vệ tài sản của ngân hàng như tài sản của mình, không vì “lợi ích cá nhân” mà quyết định cho một khách hàng không đủ điều kiện vay vốn hoặc thấy khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, tình hình tài chính có vấn đề không trả được nợ vay nhưng vì sợ hậu quả nên vội vàng bỏ ngân hàng đi tìm việc ở một ngân hàng khác.
Ngoài ra, trong hoạt động kinh doanh, ngân hàng thể hiện trách nhiệm đạo đức bằng việc tuyệt đối không cấp tín dụng hay giao dịch với các cá nhân, doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có thể tạo ảnh hưởng xấu đến môi trường và đời sống xã hội (làm mất mỹ quan đô thị, cố ý gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo an toàn lao động, kinh doanh hàng kém chất lượng…). Ngân hàng cần có quy định thưởng phạt quán triệt đến từng CBNV về chuẩn mức
đạo đức, CBNV thể hiện tính tự chủ - tự chịu trách nhiệm của từng cá nhân, từng bộ phận trong toàn bộ hoạt động nghiệp vụ theo chức năng và nhiệm vụ được giao. Trách nhiệm đạo đức là tự nguyện nhưng lại chính là vấn đề cốt lõi được đặc biệt quan tâm trong trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Nhà nước cần xây dựng đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ ngân hàng. Hiện nay, văn bản pháp quy cao nhất điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng là luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng. Hai bộ luật này đã góp phần có hiệu quả, tạo môi trường pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, để luật đi vào cuộc sống cần có những hướng dẫn cụ thể để tránh việc lách luật và thực hiện luật kém hiệu quả. Bên cạnh đó, các văn bản pháp lý hiện tại vẫn chưa theo kịp các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ, ngân hàng.
3.3.1. Nhà nước cần xây dựng đồng bộ khuôn khổ pháp lý, tiệm cận chuẩn mực quốc tế
Hiện nay, văn bản pháp quy cao nhất điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, TCTD đó là Luật NHNN và Luật các TCTD. Hai bộ luật này đã góp phần có hiệu quả, tạo môi trường pháp lý cho các TCTD thực hiện hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, qua thực tế cũng nhận thấy nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, với xu thế hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng, với rất nhiều nội dung mới, khái niệm mới còn chưa được hiểu một cách thấu đáo, bởi nhiều thực tế chúng ta chưa có, chưa hoạt động, chưa đủ điều kiện và chưa được kiểm nghiệm trong thực tế. Theo đánh giá của nhiều NHTM, Việt Nam thiếu khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho công tác quản trị ngân hàng. Vì vậy, Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực từ ngày 1/1/2011 đã có một chương quy định rõ vấn đề tổ chức, quản trị điều hành của TCTD. Luật các TCTD 2010 ra đời đã tạo ra được một hành lang pháp lý cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của các ngân hàng nói chung, đã tạo điều kiện nâng cao công tác quản trị, nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng,
từng bước tiếp cận với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Luật các TCTD phân định chức năng, nhiệm vụ quyền lợi và trách nhiệm giữa HĐTV/HĐQT, Ban điều hành và Ban kiểm soát. Trên cơ sở đó, các ngân hàng đã từng bước quan tâm hơn đến công tác quản trị đối với ngân hàng mình, quan tâm hơn đến việc xây dựng hệ thống văn bản quản lý nội bộ và vận hành theo các quy chế nội bộ này.
Tuy nhiên, để luật đi vào cuộc sống cần có những hướng dẫn cụ thể, để tránh việc lách luật và việc thực thi luật kém hiệu quả. Bên cạnh đó, hiện tại các vãn bản pháp lý vẫn chưa theo kịp các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ ngân hàng. Điều này đã đặt các NHTM vào tình trạng rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng khó có thể dự đoán được. Chính vì vậy, việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ và minh bạch là việc rất quan trọng giúp các ngân hàng có một môi trường kinh doanh ổn định hơn trong sự bảo vệ của hành lang pháp lý. Qua đó, góp phần hạn chế rủi ro đạo đức trong kinh doanh ngân hàng. Để làm dược điều này, Nhà nước cần thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:
- Rà soát, chỉnh sửa và xây dựng các văn bản pháp quy trên lĩnh vực ngân hàng, cụ thể: tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện Luật NHNN, Luật các TCTD và các văn bản dưới luật.
- Quy định việc chấp hành kiểm tra, giám sát của các cơ quan có chức năng, việc tham gia bảo mật, chia sẻ rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- Quy định quy tắc đạo đức kinh doanh áp dụng cho tất cả các TCTD của Việt Nam bao gồm những nguyên tắc và nguyên lý quan trọng nhất trong đạo đức kinh doanh. Nghị định 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM đã quy định thành viên HĐQT, ban kiểm soát, người điều hành, giám đốc chi nhánh ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện một cách trung thực, cẩn trọng vì lợi ích của ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có định nghĩa về hành vi cẩn trọng hợp lý và hiện tại không có bộ nguyên tắc về hành vi và đạo đức kinh doanh.
- Hoàn thiện các văn bản luật pháp khác như Luật phá sản, Luật xử lý vi phạm pháp luật,...