Lựa Chọn Lộ Trình Tự Do Hóa Tài Chính Thích Hợp


3.3.2. Lựa chọn lộ trình tự do hóa tài chính thích hợp

Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu sự can thiệp hành chính với hệ thống tài chính, hạn chế sự can thiệp của chính phủ, song vẫn có sự phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội.

Đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, tự do hóa tài chính tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của từng định chế tài chính, nhưng đồng thời cũng có thể tạo ra những rủi ro cho thị trường tài chính nếu tiến trình tự do hóa không được thực hiện theo một lộ trình thích hợp. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã dẫn từng bước quá trình tự do hóa tài chính với những bước đi cụ thể: (i) Dần tự do hóa lãi suất và tỷ giá: từ năm 1989 chuyển từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế tỷ giá cố định có điều chỉnh và tiếp theo đó chuyển sang cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý từ năm 1999, cơ chế lãi suất dần tự do hóa từ năm 1992 và chính thức áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động của các TCTD từ năm 2002, tuy nhiên, trong những thời điểm cụ thể vẫn có những can thiệp mang tính hành chính (chẳng hạn quy định trần lãi suất huy động và cho vay từ tháng 5/2008 nhằm góp phần ổn định lãi suất thị trường); (ii) Tự do hóa các quy định về kiểm soát tín dụng; (iii) Đa dạng hóa các hình thức sở hữu NHTM và các định chế tài chính khác; (iv) Cho phép các TCTD nước ngoài được thực hiện đầy đủ hơn các dịch vụ tài chính tại Việt Nam (v) Bước đầu áp dụng các công cụ tài chính phái sinh; và (vi) Từng bước tự do hóa các giao dịch vốn cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, vay nợ nước ngoài, cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu ở Việt Nam theo một tỷ lệ khống chế...

Như vậy, trong hơn 20 năm đổi mới, quá trình tự do hóa tài chính Việt Nam đã có những bước đi thận trọng và phù hợp, có tác động tích cực đến thị trường tài chính. Tuy nhiên, trong từng hoạt động cụ thể vẫn bộc lộ nhiều bất cập. Đó là:

- Sự can thiệp hành chính đối với lãi suất và tỷ giá đôi khi quá sâu và kéo dài, tạo nên cơ chế nhiều giả trong một thời điểm dẫn đến những bất ổn trên thị trường tài chính.

- Quá trình tự do hóa tài khoản vốn diễn ra tương đối nhanh so với các điều kiện cụ thể của Việt Nam đã gây nên những tác động tiêu cực và tạo nên những rủi


ro tiềm ẩn cho thị trường tài chính: Luồng vốn ngoại tệ ra, vào nhiều tạo nên sự biến động tỷ giả, hạn chế tính chủ động của NHNN Việt Nam trong việc kiểm soát lượng tiền, gây áp lực lên lạm phát. Trong điều kiện đô la hóa ở Việt Nam, luồng vốn ngoại tệ ra vào mạnh tạo nên sự di chuyển giữa vốn nội tệ và ngoại tệ ngay trên lãnh thổ Việt Nam, tạo nên khó khăn về thanh khoản theo từng loại tiền cho các NHTM, ảnh hưởng đến an toàn vi mô.

- Tự do hóa tài chính làm gia tăng rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng do suy giảm những giới hạn gia nhập thị trường và làm gia tăng cạnh tranh, sự hình thành bong bóng thị trường tài sản (Ví dụ, giá cả chứng khoán trên thị trường thứ cấp có thể vượt xa giá cả chứng khoán trên thị trường sơ cấp, sự bùng nổ thị trường bất động sản) khiến các NHTM dễ dàng vi phạm các nguyên tắc cơ bản của quản trị ngân hàng, với mục tiêu theo đuổi là kiếm lời nhanh chóng với chi phí và nỗ lực thấp nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 229 trang tài liệu này.

Để hạn chế những tác động tiêu cực, đảm bảo sự phát triển ổn định và lành mạnh của hệ thống tài chính đòi hỏi phải có lộ trình tự do hóa tài chính thích hợp, có thể tiếp tục thực hiện theo hai giai đoạn sau:

Giai đoạn 2018-2020:

Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 25

- Tự do hóa tỷ giá: Trong những điều kiện đặc biệt có thể có sự can thiệp hành chính vào tỷ giá nhưng không kéo dài vì sẽ dẫn đến cơ chế nhiều giá trên thị trường. Giải pháp cơ bản cho vấn đề này là phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.

- Tiếp tục tái cấu trúc các NHTM theo tiến trình và lộ trình; cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng dịch vụ như đã cam kết.

- Tự do hóa giao dịch vốn thận trọng theo trình tự dần nới lỏng đầu tư trực tiếp đến một phần đầu tư gián tiếp; tự do hóa các luồng vốn vào trước các luồng vốn ra; tự do hóa đối với các công cụ tài chính có độ rủi ro thấp trước, đối với các công cụ tài chính có độ rủi ro cao sau.

Giai đoạn 2020 - 2030:

Căn cứ vào tình hình thế giới và những điều kiện về tự do hóa tài chính của Việt Nam để cụ thể hóa bước đi trong giai đoạn này. Cụ thể:

- Trong điều kiện kinh tế quốc tế thuận lợi, Việt Nam đáp ứng tốt các điều kiện tự do hóa tài chính (bội chi ngân sách dưới 5%; Hạn chế thâm hụt tài khoản


vãng lai; Dự trữ quốc tế phù hợp; Lạm phát được kiểm soát; Khu vực tài chính ngân hàng ổn định sẽ thực hiện quá trình tự do hóa giao dịch vốn mức độ cao hơn.

- Trong điều kiện môi trường quốc tế và Việt Nam không thuận lợi, tiến trình tự do hóa giao dịch vốn nên diễn ra chậm hơn, thậm chí có thể đặt ra những quy định tạm thời để kiểm soát các giao dịch vốn, đặc biệt đối với các giao dịch vốn gián tiếp, ngắn hạn, có độ rủi ro cao.

3.3.3. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các Ngân hàng thương mại trong quá trình hiện đại hóa công nghệ

Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giúp các NHTM nâng cao khả năng quản lý hoạt động kinh doanh, quản lý rủi ro. Tuy nhiên, khoảng cách về công nghệ giữa các NHTM Việt Nam đối với cộng đồng tài chính quốc tế cũng như với khu vực còn khá xa. Nguyên nhân chủ yếu là ở hạ tầng cơ sở đất nước và ở điều kiện vốn hạn hẹp của các ngân hàng. Để giải quyết vấn đề này thì sự khuyến khích hỗ trợ của Nhà nước đối với ngành ngân hàng là hết sức cần thiết. Nhà nước nên tạo điều kiện để các NHTM mở rộng hợp tác quốc tế qua đó đưa công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó Nhà nước có thể xem xét tăng thêm vốn cho các NHTM Nhà nước, giúp các ngân hàng có thêm nguồn lực tài chính trong quá trình hiện đại hóa công nghệ.

3.3.4. Tạo điều kiện xây dựng trung tâm thông tin tín dụng tư nhân

Các trang tâm thông tin tín dụng tư nhân được hình thành do những nhu cầu của thị trường thường hoạt động tốt hơn các trung tâm thông tin tín dụng công trong việc hỗ trợ cho các giao dịch tín dụng. Các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân sẽ thu thập thông tin từ nhiều nguồn rộng rãi - các nhà cung ứng tín dụng thương mại, người bán lẻ, tòa án và các Công ty cung ứng dịch vụ - và các thông tin này có thời hạn lưu trữ dài hơn. Thực tế đã chứng minh rằng các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân trên thế giới đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của thị trường tín dụng và tăng cường khả năng tiếp cận nguồn tài trợ. Người cho vay thường lựa chọn các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân vì các trung tâm thông tin tín dụng này cung ứng các thông tin chính xác và nhanh chóng. Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân sẽ cung ứng thông tin tín dụng về các doanh nghiệp và các cá nhân cho các ngân hàng, người cho vay, tạo thêm một kênh cung cấp thông tin một cách khách


quan, qua đó giúp hạn chế sự bất cân xứng thông tin trong hoạt động tín dụng của NHTM, hạn chế hành vi rủi ro đạo đức của khách hàng vay, đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh ngân hàng. Việc thành lập một trang tâm thông tin tín dụng áp dụng những thực tiễn tốt nhất của quốc tế phục vụ cho việc cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp và cá nhân của các NHTM Việt nam là một bước tiến rất quan trọng đối với ngành ngân hàng.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Trên cơ sở định hướng phát triển hoạt động kinh doanh, định hướng triển khai quản lý rủi ro đạo đức tại các NHTM Việt Nam trong thời gian tới, chương 3 của luận án, nghiên cứu sinh đã đề xuất một hệ thống các giải pháp dựa trên cơ sở các lập luận khoa học, bám sát khả năng thực hiện tại các NHTM Việt Nam và chủ trương của NHNN. Đồng thời nghiên cứu sinh đã đề xuất các kiến nghị với Chính Phủ, NHNN nhằm tạo môi trường kinh doanh và hành lang pháp lý thuận lợi cũng như hỗ trợ các NHTM Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện để đảm bảo tính khả thi của giải pháp.


KẾT LUẬN


Việc quản lý của cơ quan quản lý vĩ mô đối với các NHTM thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, quy định, quy chế… và cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng giúp các NHTM trên cơ sở đó xây dựng, ban hành các chính sách, quy định, quy trình phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng, thực hiện theo đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng; việc thực hiện tốt các quy định trên giúp các NHTM hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, để hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra, đặc biệt là rủi ro đạo đức là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu đối với các NHTM trong giai đoạn hiện nay, do vậy chính các NHTM cần phải xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với mục tiêu và chiến lược của ngân hàng và hoạt động có hiệu quả từ việc Hội đồng quản trị phê duyệt chiến lược, chính sách quản trị rủi ro và các hạn mức rủi ro, đảm bảo đầy đủ các nguồn lực và phương pháp thích hợp để kiểm soát các rủi ro, thiết lập bộ phận chuyên trách quản lý rủi ro đảm bảo các chính sách và quy trình kiểm soát đối với các rủi ro được thực hiện và tuân thủ; phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thiết lập một hệ thống kiểm soát đặc biệt về những hành vi trong công tác huy động vốn và cho vay; giám sát trực tiếp ban điều hành, giám sát gián tiếp đối với toàn bộ nhân viên; mọi hoạt động giao dịch đều phải có người thực hiện và người giám sát, thậm chí giám sát chéo, thiết lập các chính sách phù hợp để tuyển chọn cán bộ có năng lực, trình độ… Ngân hàng là lĩnh vực đòi hỏi sự minh bạch và chuyên nghiệp cao, trong đó mọi hoạt động kinh doanh đều gắn với yếu tố con người mà rủi ro đạo đức đều xuất phát từ ý chí chủ quan của con người. Do vậy, việc nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ ngân hàng là điều hết sức quan trọng; việc tuyển chọn, đào tạo lãnh đạo, nhân viên có đạo đức tốt, bố trí công việc phù hợp với kỹ năng, trình độ của cán bộ sẽ góp phần hạn chế các rủi ro. Nguồn nhân lực yếu kém không chỉ tạo ra những hạn chế trong quản trị ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn tiềm ẩn rủi ro đạo đức rất lớn. Đạo đức phải được coi như một tiêu chí tiên quyết trong công tác tuyển chọn.


Rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng là không thể tránh khỏi, vấn đề là phải làm sao để quản trị tốt, giảm thiểu những rủi ro này? Hơn bao giờ hết, ngành ngân hàng phải giáo dục đạo đức nghề nghiệp và coi đó như một nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình tái cơ cấu, tạo nền tảng cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa mang lại cho hệ thống ngân hàng nhiều lợi ích, nhưng cũng không ít những thách thức. Thách thức rõ nhất là cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt hơn, với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn, đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải không ngừng tạo lập và nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Thêm vào đó, rủi ro đối với các hoạt động ngân hàng ngày càng tăng, bởi mối quan hệ nhạy cảm của thị trường trong nước với những cú sốc ngoài ý muốn của thị trường quốc tế ngày càng tăng.

Xét trên giác độ toàn hệ thống, nhiều nghiên cứu có kết luận rằng rủi ro đạo đức là một nguyên nhân cốt lõi gây nên khủng hoảng ngân hàng. Trong bối cảnh thực tiễn các cuộc khủng hoảng xảy ra tại thị trường tài chính lớn trong khu vực và trên thế giới, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam luôn phải đáp ứng các yêu cầu và giám sát và an toàn hệ thống. Tuy vậy, trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng tự do hóa tài chính, mức độ cạnh tranh gay gắt và một xu thế tất yếu khó tránh khỏi là rủi ro đạo đức gia tăng trong hoạt động của ngân hàng đòi hỏi có những nghiên cứu tìm ra các giải pháp quản lý hữu hiệu và luận án này đã góp phần thực hiện mục tiêu trên. Cụ thể:

Thứ nhất: Luận án đã nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về vấn đề rủi ro đạo đức và quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của NHTM.

Thứ hai: Luận án đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng và rút ra bài học có thể áp dụng tại Việt Nam.

Thứ ba: Phân tích thực trạng quản lý rủi ro đạo đức và mức độ ảnh hưởng của nó tới sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua


nguồn số liệu từ NHNN và các NHTM cung cấp nhằm chỉ ra những mặt được cũng như những hạn chế trong công tác quản lý vấn đề rủi ro đạo đức của các NHTM Việt Nam, qua đó thấy rõ sự cần thiết phải tăng cường quản lý rủi ro đạo đức tại các NHTM Việt Nam.

Thứ tư: Luận án đưa ra hệ thống giải pháp nhằm quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của hệ thống, đảm bảo tính khoa học, khả thi góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.

Tuy nhiên, đây là một vấn đề rộng và không kém phần phức tạp. Bởi vậy luận án sẽ không tránh khỏi cỏ những khiếm khuyết. Nghiên cứu sinh rất hy vọng nhận được nhiều những góp ý của các thầy cô giáo, các nhà khoa học trong hội đồng để nghiên cứu sinh tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện luận án.


DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN


1. Trần Trung Dũng (2017), "Quản lý rủi ro đạo đức trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại", Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán, (170), tr.70-72.

2. Trần Trung Dũng (2017), "Đạo đức kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng", Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán, (173), tr.28-30.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/12/2022