“Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm về hình sự là sự trả lời, sự bàn cãi giữa Kiểm sát viên với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nhằm làm rò sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” [69, tr.4].
Theo quan điểm của tác giả luận văn, ở khái niệm trên chưa phân định rò nét giữa tranh luận của Kiểm sát viên với tranh luận của các chủ thể khác tại phiên tòa. Nếu là “sự trả lời, sự bàn cãi” giữa “Kiểm sát viên” với “bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác” thì nó bao hàm nhiều hơn ở ngữ nghĩa của quá trình tranh luận của cả Kiểm sát viên và của các chủ thể khác tại phiên tòa. Do đó, chưa thật sự rò nét gắn với hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên. Theo tác giả, tranh luận của Kiểm sát viên phải là việc Kiểm sát viên đưa ra chứng cứ, dẫn chứng, phân tích, lập luận để trả lời, đối đáp lại những câu hỏi, quan điểm có tính chất đối lập với Kiểm sát viên từ phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
Do đó, trên cơ sở phân tích lý luận và có luận giải, đánh giá như trên, theo tác giả luận văn thì “tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm” có thể được khái niệm như sau:
Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động của Kiểm sát viên giữ vai trò THQCT và KSXX tại phiên tòa ở phần tranh luận thuộc giai đoạn Tranh tụng tại phiên tòa, được thực hiện bằng việc Kiểm sát viên đưa ra quan điểm, tài liệu, chứng cứ, đồng thời phân tích, lập luận để trả lời, đối đáp lại những câu hỏi, quan điểm về vụ án có tính chất đối lập với Kiểm sát viên từ phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.2. Mục đích, phạm vi, nội dung tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự
1.2.1. Mục đích
Tranh luận tại phiên tòa là một thủ tục không thể thiếu tại phiên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Việc tranh luận tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo
cho vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia phiên tòa được phân tích, đánh giá chứng cứ của vụ án góp phần đề ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất với pháp luật. Tranh luận tại phiên tòa là một trong những biện pháp nhằm thực hiện nguyên tắc tranh tụng, từ đó tìm ra sự thật dưới những cách nhìn khác nhau đem lại cái nhìn toàn diện về vụ án. Khi chức năng gỡ tội được nâng cao sẽ bình đẳng hơn với chức năng buộc tội của cơ quan buộc tội. Từ đó, làm giảm các vụ án oan sai, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Bởi lẽ, tác động to lớn của hoạt động xét xử đem đến cho xã hội, bản thân người bị buộc tội là rất lớn, quyền tự do thân thể, tính mạng, tài sản… và có những quyền khi mất đi sẽ không thể phục hồi được nên cần thực sự cẩn trọng khi đưa ra một phán quyết sao cho đúng người, đúng tội.
Xét ở góc độ là một giai đoạn của một phiên tòa sơ thẩm hình sự, tranh luận được tiến hành bằng việc dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa, trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên gỡ tội đưa ra quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết khách quan và hướng giải quyết vụ án nhằm thuyết phục HĐXX chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ quan điểm của phía đối lập. Mục đích của giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm để xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho Tòa án ra bản ản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội.
Trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, sự tham gia tranh luận của Kiểm sát viên giữ vai trò THQCT và KSXX tại phiên tòa là bắt buộc, “Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa” [45, Khoản 2 Điều 322]. Tại phiên tòa, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên xuất phát từ các ý kiến có tính chất đối lập với quan điểm truy tố và luận tội từ VKSND và Kiểm sát viên. Tuy vậy, việc tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa không phải là vấn đề “được thua”, mà từ việc lập luận, đối đáp lại các ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác để làm rò các tình tiết của vụ án, góp phần cùng Toà án đánh giá đúng bản chất sự việc.
Có thể bạn quan tâm!
- Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai - 1
- Tranh luận của kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Biên Hòa tỉnh Đồng Nai - 2
- Phân Biệt Tranh Luận Của Kiểm Sát Viên Với Tranh Luận Của Các Chủ Thể Khác Tại Phiên Tòa Hình Sự Sơ Thẩm
- Quy Định Của Pháp Luật Hiện Hành Về Tranh Luận Của Kiểm Sát Viên Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự
- Thực Trạng Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Tranh Luận Của Kiểm Sát Viên Tại Phiên Tòa Sơ Thẩm Hình Sự Trên Địa Bàn Thành Phố Biên Hòa, Tỉnh
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Tóm lại, mục đích hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự cũng nằm trong mục đích chung của giai đoạn tranh luận tại phiên tòa, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự không có mục đích nào khác ngoài việc làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án nhằm góp phần cùng với HĐXX giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm.
1.2.2. Phạm vi
Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là một giai đoạn trong tiến trình xét xử tại một phiên tòa. Giai đoạn tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có giới hạn về phạm vi tranh luận. Phạm vi tranh luận tại một phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự nói chung được giới hạn về mặt không gian, thời gian và nội dung.
Về mặt không gian, hoạt động tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự chỉ được thực hiện tại nơi, tại khu vực tổ chức phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đó. Không diễn ra ngoài không gian của phiên tòa.
Về mặt thời gian, tranh luận được thực hiện ở giai đoạn tranh luận của phiên tòa, được tính từ thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần xét hỏi chuyển sang phần tranh luận và tạm dừng nếu HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi. Tranh luận kết thúc khi Chủ tòa phiên tòa cho Bị cáo được nói lời sau cùng. Cần lưu ý rằng ở đây phạm vi về thời gian được xác định là thời gian để đánh dấu thứ tự, trình tự của giai đoạn tranh luận, chứ không phải là sự giới hạn về mặt thời gian dài hay ngắn theo bộ đếm thời gian. Bộ luật TTHS cũng đã quy định “Chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận…” [45, Khoản 3 Điều 322].
Về mặt nội dung, việc tranh luận của các chủ thể tham gia vào tranh luận ở giai đoạn tranh luận giới hạn trong những nội dung của vụ án, đó là tranh luận về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Là một chủ thể tham gia vào tranh luận, hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa sơ thẩm hình sự cũng được giới hạn về phạm vi tranh luận. Trong đó, về mặt không gian và thời gian cũng được giới hạn về mặt phạm vi như nêu trên. Riêng về mặt nội dung, mặc dù hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên có mục đích là làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án nhằm góp phần cùng với HĐXX giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai cũng như bỏ lọt tội phạm nhưng hoạt động tranh luận của Kiểm sát viên lại được thể hiện cụ thể qua việc đưa ra quan điểm, tài liệu, chứng cứ, đồng thời phân tích, lập luận để trả lời, đối đáp lại những câu hỏi, quan điểm, lập luận về vụ án có tính chất đối lập với Kiểm sát viên từ phía bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác, do đó, theo tác giả luận văn, phạm vi tranh luận của Kiểm sát viên THQCT và KSXX tại phiên tòa về mặt nội dung không phải là tất cả vấn đề liên quan tới vụ án mà chỉ trong giới hạn các vấn đề liên quan tới vụ án mà bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nêu ra có tính đối lập, đối lập với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND và Kiểm sát viên.
1.2.3. Nội dung
Cũng như hoạt động tố tụng khác, tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự có nội dung nhất định theo quy định của pháp luật TTHS. Nội dung tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự bao gồm toàn bộ quan điểm, lập luận về các vấn đề cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà các bên chủ thể đưa ra, để đề nghị HĐXX chấp nhận hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án.
Với tư cách là người đại diện của VKSND giữ vai trò THQCT tại phiên tòa và là chủ thể tham gia vào tranh luận, hoạt động tranh luận của kiểm sát viên THQCT tại phiên tòa sơ thẩm hình sự có nội dung bao gồm:
Thứ nhất, trình bày lời luận tội.
Luận tội là quan điểm của VKSND về vụ án hình sự. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của BLHS,
những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Luận tội đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn với khoản mà VKSND đã truy tố trong cùng một điều luật; kết luận về một tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKSND đã truy tố; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Thứ hai, nêu quan điểm, lập luận, đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
Việc nêu quan điểm, lập luận, đối đáp của Kiểm sát viên được thực hiện trong phạm vi giới hạn về nội dung như đã đề cập trong phần phạm vi. Tức là trong giới hạn các vấn đề liên quan tới vụ án mà bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác nêu ra mà có tính chất đối lập, đối lập với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND và Kiểm sát viên.
Cả về mặt lý luận và thực tế, người bào chữa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự thường tập trung tranh luận vào những vấn đề sau:
Một là, không thừa nhận bị cáo phạm tội theo cáo trạng truy tố của VKSND, kết luận trong luận tội của Kiểm sát viên.
Hai là, bị cáo, người bào chữa thừa nhận bị cáo phạm tội nhưng phạm tội khác nhẹ hơn so với tội mà VKSND truy tố, kết luận, đề nghị thay đổi tội danh; bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không đồng ý với tội danh mà VKSND đã truy tố, kết luận, cho rằng bị cáo phạm vào tội khác nặng hơn, đề nghị thay đổi tội danh.
Ba là, thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng điều luật mà VKSND đã truy tố nhưng phạm vào khoản khác nhẹ hơn so với khoản VKSND đã truy tố.
Bốn là, thừa nhận bị cáo phạm tội theo đúng tội danh, điều khoản của VKSND đã truy tố nhưng quá trình điều tra, truy tố có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên đề nghị HĐXX trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung.
Năm là, không đồng ý với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị loại bỏ hoặc tăng thêm tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Đây là trường hợp bị cáo, người bào chữa không đồng ý với các tình tiết tăng nặng đề nghị áp dụng đối với bị cáo, đề nghị loại bỏ và đề nghị tăng thêm tình tiết giảm nhẹ.
Sáu là, không đồng ý với loại và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị.
Bảy là, không đồng ý với mức bồi thường thiệt hại hoặc biện pháp xử lý vật chứng do Kiểm sát viên đề nghị.
1.3. Phân biệt tranh luận với tranh tụng của Kiểm sát viên và tranh luận của Kiểm sát viên với tranh luận của các chủ thể khác tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.3.1. Phân biệt tranh luận với tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Trong lịch sử lập pháp và thực tiễn hoạt động tố tụng ở Việt Nam, kể từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp đến năm 2020 trong đó xác định: “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [5] thì thuật ngữ “tranh tụng” đã bắt đầu được đề cập tới và trong những năm gần đây được đề cập một cách thường xuyên hơn. Tuy vậy, trong các văn bản pháp lý trước khi có Bộ luật TTHS năm 2015 lại không đề cập đến thuật ngữ này. Vì vậy trong khoa học luật TTHS ở Việt Nam đã có những quan điểm và nhận thức không thống nhất về tranh tụng, tranh tụng tại phiên tòa và phân định giữa tranh tụng và tranh luận.
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Quốc hội ban hành Bộ luật TTHS năm 2015 thì việc nhận thức về tranh tụng, tranh tụng tại phiên tòa và phân định giữa tranh tụng và tranh luận đã rò ràng hơn, đầy đủ hơn. Hiện nay, hầu hết các quan điểm thừa nhận rằng: Tranh tụng là các hoạt động tố tụng được thực hiên bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác
bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài.
Đối với phiên tòa hình sự sơ thẩm, quá trình tranh tụng tại tòa được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa và xuyên suốt các phần thủ tục phiên tòa, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Theo tác giả luận văn, nếu căn cứ vào tiến trình diễn ra của phiên tòa hình sự sơ thẩm, có thể phân chia quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự thành 4 giai đoạn sau: Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng; Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án; Giai đoạn tranh luận giữa các bên; Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng.
Giai đoạn chuẩn bị tranh tụng: Đây là giai đoạn mở đầu chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Nó được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa của chủ tọa phiên tòa và kết thúc trước khi kiểm sát viên công bố cáo trạng.
Giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án: Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên công bố cáo trạng và kết thúc trước khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Đây là giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án do HĐXX tiến hành với sự tham gia của Kiểm sát viên, Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác.
Tranh luận giữa các bên: Đây là giai đoạn trung tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và kết thúc trước khi HĐXX vào phòng nghị án.
Giai đoạn đánh giá và công bố kết quả tranh tụng: Đây là giai đoạn có vai trò quyết định toàn bộ quá trình tranh tụng. Giai đoạn này được bắt đầu từ thời điểm HĐXX nghị án và kết thúc sau khi tuyên án. Nghị án và tuyên án là giai đoạn HĐXX đánh giá và công bố kết quả tranh tụng. HĐXX thực hiện hoạt động này một cách độc lập tại phòng nghị án, không có sự tham gia của bất cứ ai.
Là người có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm “Tiến hành tố tụng tại phiên tòa; công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, các quyết định khác của VKSND về việc buộc tội đối với bị cáo; xét hỏi, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa, phiên họp” [45, điểm l Khoản 1 Điều 42] thì Kiểm sát
viên được phân công THQCT và KSXX tại phiên tòa sơ thẩm hình sự phải tham gia vào quá trình tranh tụng.Tuy vậy, Kiểm sát viên THQCT và KSXX có phải tham gia vào toàn bộ quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hay không vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng quá trình tranh tụng tại phiên toà được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên tòa và kết thúc sau khi tuyên án, tức là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án, trong đó tranh luận là giai đoạn thể hiện đậm nét nhất của hoạt động tranh tụng. Theo tác giả luận văn, cách hiểu phạm vi tranh tụng như quan điểm này quá rộng, vì trong thực tiễn xét xử, phần thủ tục phiên toà chỉ được coi là giai đoạn chuẩn bị của quá trình tranh tụng, hơn nữa trong giai đoạn nghị án và tuyên án, Kiểm sát viên không thực hành hoạt động tranh tụng nữa mà thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử, vì vậy, Kiểm sát viên không thực hiện tranh tụng trong hai giai đoạn này.
Có quan điểm khác cho rằng quá trình hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà xét sử sơ thẩm án hình sự được tiến hành từ giai đoạn khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc giai đoạn tranh luận. Quan điểm này giới hạn phạm vi hẹp hơn, tuy vậy vẫn xác định Kiểm sát viên tham gia tranh tụng cả trong phần thủ tục phiên toà, tức là cả trong giai đoạn chuẩn bị tranh tụng.
Theo quan điểm của tác giả luận văn, từ việc xác định: Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài thì tranh tụng của Kiểm sát viên trong phiên toà hình sự sơ thẩm là quá trình Kiểm sát viên đưa ra quan điểm, chứng cứ, tranh luận của mình với bên bị buộc tội trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án và quy định pháp luật hiện hành để HĐXX có cơ sở rò ràng, chắc chắn đưa ra phán quyết chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ đây, tác giả luận văn xác định hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà sơ thẩm hình sự bắt đầu từ lúc Kiểm sát viên đọc cáo trạng và kết thúc khi kết thúc phần tranh luận. Tức là, hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự sơ thẩm nằm ở trong hai giai đoạn là giai đoạn kiểm tra công khai các chứng cứ về vụ án và giai đoạn tranh luận giữa các bên.