Các Biện Pháp Bảo Vệ Nạn Nhân Cảu Tội Phạm Là Trẻ Em

 Đối tượng được bảo vệ là nhóm người yếu thế trong xã hội

Khái niệm trẻ em được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng dưới góc độ pháp lý trẻ em được xác định theo độ tuổi và độ tuổi của trẻ em tùy thuộc vào sự quy định của mỗi quốc gia và từng lĩnh vực mà trẻ em tham gia. Xét dưới khía cạnh Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ thể pháp luật. Cũng như các chủ thể khác ,trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở nhũng quy phạm pháp luật. Theo quy định tại Công ước quốc tế về quyền trẻ em, trẻ em là những người chưa đủ 18 tuổi; nhưng tùy thuộc vào quy định của các nước thì độ tuổi giới hạn của trẻ em khác nhau. Ví dụ như pháp luật Việt Nam quy định, trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Trong giai đoạn này cơ thể trẻ còn non nớt về thể chất, trẻm em chưa thể tự mình bảo vệ được quyền và lợi ích của bản thân, là đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương cần được bảo vệ nghiêm ngặt hơn. Về tâm lý, Trẻ em đang ở giai đoạn phát triển hình thành tâm lý, định hình nhân cách khi trưởng thành. Khi ở độ tuổi này hầu hết trẻ em đều có tâm lý tò mò, thích khám phá những điều mới lạ nên cần sự chăm sóc của gia đình, trường học và xã hội để trẻ định hướng đúng đắn về nhận thức sau này. Khi bị xâm hại vào giai đoạn này sẽ dẫn đến những hậu quả hết sức nghiêm trọng về cả thể chất và tinh thần.

 Là hoạt động yêu cầu phải theo một quy trình nhanh chóng, dứt điểm và toàn diện Trình tự (thứ tự, cách thức) thực hiện một hoạt động đã được quy định, mang tính chất bắt buộc, đáp ứng những mục tiêu cụ thể của hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Vì tính chất và hậu quả của việc xâm hại trẻ em vô cùng nặng đề đối với nạn nhân, nó có thể là những nỗi đau theo trẻ em đến hết cuộc đời, do vậy khi phát hiện hay nhận được tin báo về tội phạm xâm hại trẻ em ngay lập tức cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nhanh chóng, ngay lập tức có các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em một cách nhanh gọn và dứt điểm tránh tình trạng tái trở thành nạn nhân của tội phạm.

1.3. Các biện pháp bảo vệ nạn nhân cảu tội phạm là trẻ em

 Hoạt động xét xử - hình phạt

Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước

đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, ...). Dựa vào hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước mà quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm được bảo vệ. Khi một người thực hiện hành vi phạm tội đối với trẻ em, bị phát hiện và cơ quan nhà nước có những biện pháp bảo vệ nạn nhân nhưng không có hoạt động xét xử để quyết định những hình phạt thích đáng đối với tội phạm đó thì việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em không được thực hiện một cách toàn diện và triệt để.

Xét xử và hình phạt là một hậu quả pháp lí nhất định phải có để nhằm trừng phạt tội phạm. Các hình phạt mà tội phạm phải gánh chịu thông thường gồm tử hình, tù có thời hạn, tù không thời hạn, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo và phạt tiền. Ngoài ra còn có các hình phạt bổ xung như cấm đi khỏi nơi cư trú, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định áp dụng hình phạt riêng biệt cho từng chủ thể phạm tội.

Đối với những tội phạm xâm hại về quyền trẻ em pháp luật nên xử lí nghiêm minh và có những hình phạt tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với chủ thể phạm tội vì mức độ gây thiệt hại cho trẻ em thông thường hậu quả sẽ lớn và lâu dài hơn so với những chủ thể khác trong xã hội. Thông qua quá trình điều tra và xét xử cơ quan nhà nước có thẩm quyền tìm được những nguyên nhân, điều kiện phạm tội và dự đoán khả năng tái phạm của tội phạm để có những biện pháp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em một cách tối ưu nhất, đảm bảo an toàn cho nạn nhân của tội phạm là trẻ em trước những hành vi nguy hiểm khác và có những biện pháp giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em nhanh chóng trở lại cuộc sống bình thường.

 Trợ giúp pháp lý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Sau khi bị xâm hại nạn nhân cần phải nhanh chóng được pháp

luật bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Trong nhiều trường hợp do vì trình độ hiểu biết kém, nhận thức về pháp luật hạn chế nên cần có sự trọ giúp kịp thời các hoạt động trợ giúp pháp lí để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em tất cả những vấn đề liên quan đến thủ tục, và pháp luật như trình tự, thủ tục để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thủ tục khai báo, thủ tục tìm luật sư bảo vệ…vv.

Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý - 4

Hoạt động trợ giúp pháp lí giúp bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong trường hợp nạn nhân và gia đình nạn nhân thiếu hiểu biết về pháp luật, họ chưa biết phải làm như thế nào để tự bảo vệ quyền lợi của mình nên hoạt động trợ giúp pháp lí này là hoạt động thiết thực và quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.

 Thông báo khẩn cấp với cơ quan có thẩm quyền

Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.

Những hành vi xâm hại trẻ em xuất hiện rộng rãi và liên tục do tội phạm xảy ra thường xuyên cũng như nguy cơ tái trở thành nạn nhân của tội phạm là rất cao. Do vậy nếu chúng ta bỏ mặc những hành vi đó để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tự phát hiện và giải quyết là rất khó.

Khi phát hiện hoặc nhận tin báo về hành vi phạm tội đối với trẻ em thì mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải nhanh chóng thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan đó ngay lập tức thực hiện những hoạt động để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản và các quyền, lợi ích khác của nạn nhân của tội phạm là trẻ em ngay tại chỗ và dùng các biện pháp để ngăn ngừa việc tái trở thành nạn nhân của tội phạm.

 Ngăn chặn hành vi phạm tội

Biện pháp ngăn chặn hành vi phạm tội đối với nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm các biện pháp cưỡng chế buộc người thực hiện hành vi phạm tội làm hoặc không làm gì đó khi xét thấy đây là hành vi nguy hiểm như xâm hại về tính mạng,

sức khỏe, tinh thần của trẻ em. Thì khi đó ngay lập tức cá nhân, tập thể cần ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội để bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em.

Theo điều 132 bộ luật hình sự 2015 của Việt Nam có quy định về tội Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Theo đó hoạt động ngăn chặn hành vi phạm tội đã được các nhà làm luật dự tình trước để nhằm bảo vệ nạn nhân của tội phạm tại chỗ trước khi có sự can thiệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

1.4. Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em

1.4.1. Khái niệm

Mọi trẻ em đều có quyền được bảo vệ khỏi các hình thức bạo hành, xâm hại và bóc lột. Bảo vệ trẻ em là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và mọi công dân và xã hội trong việc bảo đảm an toàn cho trẻ em khỏi bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng, bao gồm cả việc loại bỏ những nguy cơ gây tổn hại và ngăn chặn các yếu tố đang gây tổn hại cho trẻ. Bảo vệ trẻ em còn hướng tới việc can thiệp khẩn cấp và giúp đỡ trực tiếp các đối tượng trẻ em đang có nguy cơ hoặc đã bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng nhằm ngăn chặn, giúp phục hồi và tái hòa nhập cho trẻ em. Pháp luật về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em bao gồm các quy định về bảo vệ trẻ em sau khi bị tội phạm xâm hại; bị bóc lột, lạm dụng về thể xác và tinh thần. Các quy định về bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em trong tình huống khẩn cấp, đặc biệt như mất môi trường gia đình, tình trạng trẻ bị xâm hại nhiều lần; hậu quả của tội phạm gây ra cho trẻ em đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về điều kiện chăm sóc đầy đủ hoặc phục hồi cho trẻ em trong những trường hợp cần thiết; các quy định về chính sách, hình thức và biện pháp bảo vệ và trợ giúp nạn nhân của tội phạm là trẻ em, tạo cho các em được hưởng các quyền cơ bản, có cơ hội để phát triển toàn diện bản thân.

Ở Việt Nam, Nhà nước đã quy định và thực thi nhiều biện pháp nhằm bảo vệ trẻ em. Pháp luật của nước ta liên tục được điều chỉnh, bổ sung để đáp ứng và giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến trẻ em, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và từng bước hội nhập với luật pháp quốc tế.

Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc xử lý các hành vi vi phạm đối với trẻ em được quy định trong pháp luật hình sự. Ở Việt Nam, việc xử lý còn bằng chế tài hành chính.Pháp luật về trẻ em quy định về các biện pháp phúc lợi xã hội (phòng ngừa và đáp ứng nhu cầu) cần có dành cho trẻ em và gia đình.

Pháp luật bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em gồm toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật( Điều ước quốc tế, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật giáo dục, Luật lao động, Luật phòng chống bạo lực gia đình...vv) và các văn bản dưới luật quy định về vấn đề loại trừ nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến thể chất, tinh thần hoặc quyền và lợi ích hơp pháp khác của trẻ em. Đảm bảo sự an toàn toàn vẹn cho chính nạn nhân và gia đình của nạn nhân trước sự đe dọa của tội phạm và nguy tái trở thành nạn nhân của tội phạm.

1.4.2. Các công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em

Trong Tuyên bố này, vấn đề quyền trẻ em được liệt kê cụ thể theo 5 nhóm quyền như: (1) Trẻ em phải được phát triển một cách bình thường cả về thể chất và tinh thần; (2) Trẻ đói phải được cho ăn, trẻ ốm phải được chữa trị, trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải được giáo dục, trẻ mồ côi và lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm sóc; (3) Khi xảy ra tai họa, trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; (4) Trong đời sống, trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức bóc lột; (5) Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng, tài năng của chúng phải phục vụ cho đồng bào mình.

Năm 1948, Liên Hợp quốc thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong đó đã khẳng định “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và quyền tự do, mà không có bất kỳ sự phân biệt nào, như về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, dân tộc hoặc xã hội, tài sản, nơi sinh hoặc bất cứ một thực trạng nào khác”. Trẻ em được thừa nhận là chủ thể được hưởng đầy đủ các quyền con người, được bình đẳng như các thành viên khác trong xã hội khác. Năm 1959, Liên Hợp quốc ra Tuyên bố thứ hai về quyền trẻ em. Tuyên bố năm 1959 kế thừa và phát triển nội dung của Tuyên bố Giơnevơ năm 1924, khẳng định rằng: Trẻ em, do chưa trưởng thành về tinh thần và thể chất nên cần có sự

bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, bao gồm sự bảo vệ về pháp lý. Tuyên bố năm 1959 kêu gọi các bậc cha mẹlà những cá nhân, kêu gọi các tổ chức tình nguyện, giới cầm quyền địa phương và chính phủ các nước công nhận những quyền của trẻ em và phấn đấu để thực hiện bằng luật pháp và những biện pháp khác theo 10 nguyên tắc và những nguyên tắc này như là 10 nhóm quyền cơ bản của trẻ em.

Năm 1989, bằng sự vận động tích cực của một số quốc gia, Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền trẻ em (CRC).Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, một văn bản quốc tế đề cập toàn diện về quyền trẻ em theo hướng tiến bộ, bình đẳng, toàn diện và mang tính pháp lý cao, làm cơ sở cho việc thúc đẩy chăm sóc và bảo vệ các quyền trẻ em trên thực tế. Một tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh vực đã được CRC ghi nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát triển toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội.

Không chỉ đề cập đến trẻ em nói chung, CRC còn đề cập đến việc bảo vệ quyền của những nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (gồm: trẻ em tàn tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang...). Đồng thời, CRC xác định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa nghiêm trọng cuộc sống của nhiều trẻ em như bị lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, ảnh hưởng của chất ma túy và bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang... CRC được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay, cũng như bảo vệ nạn nhân của tội phạm. Để bổ sung cho CRC, Liên Hợp quốc còn thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến việc cấm sử dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và cấm buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (Việt Nam đã phê chuẩn 2 Nghị định thư này). Đến nay, đã có hơn 80 văn kiện quốc tế liên quan đến quyền trẻ em được ban hành để bảo vệ lợi ích tốt nhất cho trẻ em như: Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em (1990). Tuyên bố về chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Chương trình hành động chống việc bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (1996); Công ước 182 về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất và Khuyến nghị 190 về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ

nhất (1999); Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nhận con nuôi quốc tế (1993);Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên Hợp Quốc năm 2000.

Như vậy, đến những năm cuối thế kỷ XX, các chương trình về bảo vệ trẻ em của UNICEF mới bắt đầu tiếp cận theo nhóm đối tượng để đáp ứng nhu cầu của các nhóm trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt, trong đó tập trung vào một số nhóm trẻ em bị những hình thức gây tổn hại chính là: bóc lột, ngược đãi, bỏ rơi và bạo lực. Đến năm 2003, việc tiếp cận bảo vệ trẻ em theo nhóm đối tượng được chuyển hướng sang hình thức bảo vệ theo cách tiếp cận hệ thống. Nghĩa là giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến tất cả các nhóm trẻ em, trong đó việc xây dựng môi trường an toàn, thân thiện với trẻ em và thúc đẩy “hệ thống bảo vệ trẻ em trước sự xâm hại” được coi là ưu tiên hàng đầu.

Tháng 12/2012, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc đã đưa ra tuyên bố mới nhất về nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự. Trong nguyên tắc 11“ Trợ giúp pháp lý trong quyền lợi tốt nhất của đứa trẻ. Trong tất cả các quyết định về trợ giúp pháp lý ảnh hưởng đến trẻ em thì quyền lợi tốt nhất của trẻ em cần được cân nhắc đầu tiên.Trợ giúp pháp lý cho trẻ em cần được ưu tiên vì quyền lợi tốt nhất của trẻ, có thể tiếp cận, phù hợp với lứa tuổi, có tính kỷ luật, hiệu quả và đáp ứng những nhu cầu pháp lý và xã hội của trẻ em.” Trên tinh thần của tuyên bố thì trợ giúp pháp lý luôn đưa quyền lợi trẻ em lên hàng đầu, thể hiện rõ sự quan trọng của vấn đề bảo vệ trẻ em nói chung và trẻ em là nạn nhân của tội phạm nói riêng.

1.4.3. Pháp luật quốc gia trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em

Do tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và thể chế chính trị khác nhau mà mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật khác nhau. Hiểu một cách đơn giản Pháp luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành văn do nhà nước đặt ra hoặc công nhận nhằm điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa các chủ thể của pháp luật và nguyên tắc những quan hệ đó phát sinh trong lãnh thổ hoặc quyền

tài phán của quốc gia đó. Pháp luật trong nước có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ của quốc gia ban hành ra nó.

Từ đó chúng ta cũng có thể hiểu một cách đơn giản pháp luật quốc gia trong bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành văn do nhà nước đặt ra hoặc công nhận nhằm điều chỉnh những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em phát sinh trong lãnh thổ hoặc quyền tài phán của quốc gia đó.

Các quy định về việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em phải được quy định trong :

 Luật hiến pháp do cơ quan cao nhất của nhà nước ban hành, gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ cơ bản về tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ của công dân, về quốc tịch. Đây là ngành luật chủ đạo, cơ bản nhất trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, nó điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng nhất, cơ bản nhất và tất cả những ngành luật khác đề hình thành trên những nguyên tắc của hiến pháp. Trong hệ thống pháp luật của mỗi nước, Luật Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo vì nó có đối tượng điều chỉnh đặc biệt và là cơ sở để liên kết các ngành Luật khác. Ví dụ: Luật Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, xác định nguyên tắc của mối quan hệ giữa công dân và nhà nước, đó chính là những nguyên tắc chủ đạo để xây dựng ngành luật hành chính, hay là Luật Hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ bản trong những quan hệ kinh tế, xác lập nền tảng cơ bản cho việc xây dựng ngành luật dân sự, thương mại, kinh tế. Vì giữ vai trò quan trọng, định hướng cho các ngành luật khác, do vậy Luật hiến pháp rất quan trọng trong việc bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Những quy định trong hiến pháp cần phải có những quy định cụ thể về chủ thể thực hiện việc bảo vệ, định hướng rõ ràng các hoạt động bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em. Từ các quy định định hướng trong quy định tại Luật hiến pháp các cơ quan nhà nước sẽ có trách nhiệm phải thực hiện nhiệm vụ của mình và đảm bảo cho công tác bảo vệ nạn nhân của tội phạm một cách toàn diện và nhanh chóng nhất.

 Luật hình sự: Luật hình sự gồm các quy định xác định những hành vi phạm tội và đề ra những hình phạt riêng biệt. Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 29/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí