với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, từ đó sẽ dấn tới rủi ro tín dụng và sự tổn thất cho NHTM.
Sự minh bạch về thông tin của khách hàng
Đối với một số lượng không nhỏ các khách hàng doanh nghiệp, việc ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng sổ sách kế toán vẫn chưa được thực hiện. Những thông tin tài chính mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng để chứng minh năng lực trả nợ phần lớn là mang tính hình thức chứ chưa phản ánh đúng thực chất hoạt động, thậm chí là giả mạo, gian lận. Bên cạnh đó, rủi ro đạo đức từ các cán bộ ngân hàng cũng giúp sức cho khách hàng che giấu những thông tin thực về hoạt động của mình. Khi cán bộ tín dụng thực hiện phân tích tín dụng trên những thông tin chưa chính xác này sẽ dẫn tới kết quả thẩm định sai và cho vay sai, từ đó rủi ro tín dụng tất yếu phát sinh. Việc đảm bảo thông tin minh bạch, chính xác về khách hàng vay nếu không thực hiện được sẽ dẫn tới quyết định cho vay không chính xác mang tính dây chuyền, ảnh hưởng tới toàn bộ danh mục cho vay.
2.2.3.3. Nhân tố từ phía môi trường kinh tế vĩ mô
Mức độ ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế không ổn định, có những biến động bất thường sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng hoạt động kinh doanh nói chung của các khách hàng. Đối với nhóm khách hàng cá nhân, suy giảm kinh tế khiến thu nhập là nguồn trả nợ ngân hàng cũng giảm theo. Với nhóm khách hàng doanh nghiệp, khi nền kinh tế có những yếu tố suy giảm sẽ khiến tổng cầu giảm, ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp; hoặc có thể chỉ ảnh hưởng tiêu cực tới một ngành hoặc một vài ngành có liên quan như làm cho các yếu tố đầu vào khan hiếm, thị trường đầu ra bị thu hẹp. Tất cả những yếu tố trên có thể dẫn tới việc không trả được nợ của một nhóm hoặc toàn bộ các khách hàng của ngân hàng.
Mức độ chặt chẽ của hệ thống luật pháp, các quy định pháp lý trong hoạt động ngân hàng
Nếu hệ thống chính sách, luật pháp, quy định trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng còn hạn chế, lỏng lẻo thì các khách hàng vay sẽ dễ nảy sinh ý định sử dụng vốn sai mục đích và giảm thiện chí trả nợ. Ngoài ra, nếu công cụ quản lý này không hiệu quả sẽ làm giảm hiệu chức năng giám sát, quản lý hoạt động của các NHTM của các cơ quan quản lý nhà nước, rủi ro tín dụng tại sẽ không được nhận diện, cảnh báo, khiến cho NHTM không lường trước được các biến cố rủi ro tín dụng phát sinh, ảnh hưởng đến khả năng theo dõi, quản lý danh mục của ngân hàng. Ngược lại, nếu hệ thống pháp lý quá chặt chẽ lại có thể gây cản trở tới khả năng tiếp cận vốn tín dụng và gây cản trở tới khả năng tang trưởng của các ngành, lĩnh vực kinh tế sẽ khiến khách hàng hoạt động trong những lĩnh vực đó gặp khó khăn, làm giảm khả năng trả nợ, ảnh hưởng tới một phần hoặc toàn bộ danh mục cho vay. Như vậy, việc duy trì tính hợp lý và phù hợp của chính sách, luật pháp, quy định… liên quan tới hoạt động tín dụng ngân hàng là rất quan trọng.
Chất lượng, độ minh bạch của hệ thống thông tin quản lý
Hệ thống thông tin quản lý là cơ sở để tất cả các thành viên trong nền kinh tế tham chiếu để có các quyết định, hành vi kinh tế phù hợp. Hệ thống thông tin tốt phải đảm bảo được tính cập nhật, minh bạch, nguồn gốc đáng tin cậy, có thể sử dụng được. Tuy nhiên không phải nền kinh tế nào cũng duy trì được hạ tầng thông tin quản lý tốt như vậy, đặc biệt là các nền kinh tế mới nổi, đang phát triển. Tại đây, rủi ro danh mục tín dụng có thể dễ dàng phát sinh do nguyên nhân bất cân xứng thông tin theo những hướng như sau: ngân hàng cho vay những khách hàng có mức độ rủi ro cao, ngân hàng gia tăng tỷ trọng danh mục cho vay vào những lĩnh vực có xu hướng biến động xấu, khách hàng có những quyết đinh kinh tế không phù hợp do dự báo sai về các biến động thị trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Ví Dụ Về Phân Tích Mức Độ Vỡ Nợ Theo Tuổi Nợ
- Sử Dụng Các Công Cụ Quản Lý Rủi Ro Danh Mục Cho Vay
- Phân Loại Hợp Đồng Phái Sinh Tín Dụng Theo Các Tiêu Chí
- Thực Trạng Quản Lý Rủi Ro Danh Mục Cho Vay Tại Các Nhtm Việt Nam
- Tỷ Lệ Car Của Các Nhtm Việt Nam Giai Đoạn 2017-2019
- Mức Độ Sử Dụng Hai Phương Pháp Xây Dựng Cơ Cấu Tổ Chức Quản Lý Rủi Ro Danh Mục Cho Vay Tại Các Nhtm
Xem toàn bộ 252 trang tài liệu này.
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý rủi ro danh mục cho vay tại NHTM
2.3.1. Kinh nghiệm của các NHTM Nhật Bản
Theo Phan Thị Linh (2012) từ nghiên cứu về áp dụng hệ thống quản lý rủi ro tín dụng của Cơ quan dịch vụ tài chính (FSA) Nhật Bản đối với các NHTM trọng
hệ thống, các kinh nghiệm quản lý rủi ro trên phạm vi danh mục tín dụng nói chung được áp dụng với danh mục cho vay tại các NHTM quốc gia này như sau:
Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Tại các NHTM Nhật Bản đều áp dụng mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung, khi đó chức năng quản lý rủi ro được tách rời khỏi chức năng kinh doanh và tác nghiệp. Thêm vào đó, việc quản lý rủi ro tín dụng đối với từng khoản vay được tách bạch với quản lý rủi ro tín dụng trên phạm vi danh mục tín dụng.
Về bộ phận quản lý rủi ro danh mục tín dụng, tại các NHTM Nhật Bản thì bộ phận này không có quyền quản lý trực tiếp với từng khoản vay (nhiệm vụ này thuộc về bộ phận tác nghiệp hoặc bộ phận quản lý rủi ro từng khoản vay) và chỉ chịu trách nhiệm về theo dõi, giám sát và thực hiện các giao dịch phòng ngừa rủi ro trên phạm vi toàn danh mục. Tuy vậy, tại các NHTM này vẫn đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa bộ phận quản lý rủi ro danh mục tín dụng với bộ phận khách hàng, cụ thể là trong bộ phận khách hàng có một nhóm thường xuyên giữ liên lạc, báo cáo, trao đổi thông tin với bộ phận quản lý rủi ro danh mục. Việc quản lý này vừa giúp NHTM vẫn có khả năng mở rộng tín dụng với khách hàng, lại vừa kiểm soát được rủi ro của khách hàng trên quan điểm: quản lý rủi ro danh mục giúp từ đó chọn ra được các khách hàng mục tiêu để cấp tín dụng, bên cạnh đó còn kiểm soát được mức độ tập trung của danh mục tín dụng một cách thường xuyên, liên tục.
Về nhận diện rủi ro danh mục cho vay
Hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế Nhật Bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi nền kinh tế có vấn đề thì ngành ngân hàng cũng không thể hoạt động tốt. Cho dù ngân hàng đóng vai trò hỗ trợ đối với các ngành công nghiệp sản xuất và dịch vụ, nhưng hệ thống ngân hàng cũng có thể làm tình hình xấu hơn và trì trệ sự ổn định của nền kinh tế nếu bản thân ngân hàng cũng gặp khó khăn. Nếu như phần lớn các khoản cho vay của ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp không khỏe mạnh, thì không chỉ ngân hàng hoạt động không hiệu quả, mà nền kinh tế cũng sẽ bị ảnh hưởng. Do vậy một trong số những dấu hiệu cảnh báo
sớm rủi ro về danh mục tín dụng kém hiệu quả đến từ các chỉ số đánh giá “sức khoẻ” của nền kinh tế vĩ mô.
2.3.2. Kinh nghiệm của Ngân hàng phát triển KDB - Hàn Quốc
Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Việc duy trì hệ thống kiểm soát rủi ro trong cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro được thực hiện rất nghiêm túc tại ngân hàng KDB. Hệ thống kiểm soát rủi ro tín dụng của KDB được thiết lập một cách độc lập, áp dụng cho từng khoản tín dụng riêng lẻ, bao gồm cả những khoản tín dụng ngoại bảng, và toàn bộ danh mục tín dụng của ngân hàng trên nguyên tắc quản lý hàng ngày và đưa ra cảnh báo sớm mỗi khi hệ thống phát hiện ra rủi ro. Hệ thống này cũng cho phép ngân hàng kiểm tra tình trạng của khoản vay từ điều kiện cấp tín dụng, xếp hạng khách hàng, điều kiện giải ngân, dự phòng rủi ro, hạn mức rủi ro và mức độ tuân thủ pháp luật. Hơn nữa, hệ thống này cũng là công cụ giúp ngân hàng đánh giá lại chiến lược rủi ro cũng như các chính sách trước khi xảy ra rủi ro. Kết quả kiểm tra kiểm soát rủi ro tín dụng sẽ được báo cáo trực tiếp lên Ủy ban quản lý rủi ro (Nguyễn Quang Hiện, 2016).
Về đo lường rủi ro danh mục cho vay
Ngân hàng KDB đã xây dựng lộ trình hướng tới phương pháp đo lường rủi ro tín dụng hiện đại như sau:
Tính toán PD, LGD, EAD
Tính toán EL,UL
Tính toán ELp và ULp
Xác định Vốn kinh tế và định giá khoản vay
Thực hiện quản lý danh mục tín dụng chủ động
Quản lý rủi ro trên cơ sở giá trị
Sơ đồ 2.11: Các bước lượng hoá rủi ro tín dụng tại ngân hàng KDB
Nguồn: Tác giả tổng hợp theo Nguyễn Quang Hiện (2016) Giai đoạn 1: Giai đoạn đầu của quản lý rủi ro tín dụng là tuân thủ các nguyên
tắc quản lý theo Basel II bằng việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm tính toán ba cấu phần là PD, LGD và EAD.
Giai đoạn 2: Dựa trên kết quả tính toán PD, LGD và EAD, các ngân hàng sẽ phát triển các ứng dụng trong quản lý rủi ro tín dụng trên nhiều phương diện, mà ứng dụng đầu tiên là tính toán, đo lường rủi ro tín dụng qua EL – tổn thất dự kiến và UL – tổn thất ngoài dự kiến tại cấp độ một khách hàng cụ thể (Basel, 2000):
ELi = PD x LGD x EAD
Tuy nhiên, việc đo lường, tính toán vốn tối thiểu cần duy trì để bù đắp rủi ro cho các khoản vay không chỉ dừng lại ở những khoản vay đơn lẻ mà còn tính đến rủi ro của cả danh mục tín dụng.
Giai đoạn 3: Đây là giai đoạn quản lý rủi ro danh mục tín dụng bằng cách lượng hoá mức tổn thất dự kiến (ELp) và ngoài dự kiến (ULp) của cả danh mục dựa trên việc xác định độ rủi ro tương quan giữa các khoản vay trong danh mục và mức rủi ro tập trung của cả danh mục.
Giai đoạn 4: Ngân hàng có thể quản trị vốn kinh tế và định giá khoản vay theo mức rủi ro tương ứng. Khi các thước đo rủi ro tín dụng là EL và UL đã được lượng hóa, ngân hàng có cơ sở để xác định lãi suất cho vay theo đúng nguyên tắc “rủi ro cao, lợi nhuận cao; rủi ro thấp, lợi nhuận thấp” qua cơ chế tính giá bù đắp rủi ro.
Giai đoạn 5: Cao hơn việc quản lý vốn kinh tế và định giá khoản vay theo rủi ro, ngân hàng hướng tới việc quản lý rủi ro danh mục tín dụng chủ động (ACPM- Active credit portfolio management) thay vì quản lý rủi ro danh mục một cách thụ động bằng việc xác định và chuyển giao rủi ro một cách chủ động thông qua việc sử dụng ngân quỹ tín dụng và chứng khoán hoá khoản vay (Credit Treasury and Securitisation).
Giai đoạn 6: Mô hình toàn diện nhất mà ngân hàng đạt được là quản lý rủi ro trên cơ sở giá trị (Value-based management – VBM). Khi đó, tất cả các giá trị đã được điều chỉnh rủi ro của khoản tín dụng đơn lẻ cho đến danh mục cho vay đều được xác định, giúp cho công tác quản lý rủi ro được hiệu quả, chính xác.
Về sử dụng các công cụ quản lý rủi ro danh mục cho vay
Để quản lý rủi ro tín dụng toàn hàng, KDB thực hiện quản lý theo hạn mức tín dụng bao gồm hai cấp độ chủ yếu là giới hạn tín dụng theo ngành và theo khách hàng như sau:
Thứ nhất, đối với ngành hàng, hạn mức được xác định trên cơ sở kết hợp việc đánh giá giữa Dấu hiệu (tầm nhìn dài hạn) và Xếp hạng (tầm nhìn ngắn hạn) để đưa ra định hướng tăng trưởng, duy trì hay rút lui. Mục tiêu của việc thiết lập hạn mức theo từng ngành nhằm phòng tránh rủi ro tập trung vào một ngành hàng cụ thể, đồng thời tối ưu hóa hiệu quả của các tiêu chí quản lý rủi ro từng ngành. Thứ hai, ngoài hạn mức rủi ro cho từng khách hàng, KDB cũng thiết lập hạn mức rủi ro cho nhóm khách hàng có liên quan. Trường hợp hạn mức rủi ro của một khách hàng hay một nhóm khách hàng có liên quan vượt quá giới hạn cho phép, các quyết định cấp tín dụng phải được phê duyệt bởi Chủ tịch Hội đồng quản trị. Đối với các giao dịch có mức độ rủi ro cao, hệ thống đưa ra các tiêu thức nhận dạng và quản lý hạn mức rủi ro chặt chẽ.
2.3.3. Kinh nghiệm của ngân hàng Bangkok Bank - Thái Lan
Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Tại Bangkok Bank, mô hình quản lý rủi ro tín dụng được áp dụng là mô hình dạng chuyển đổi, đây là mô hình kết hợp của cả cách thức quản lý rủi ro tập trung và phân tán (Lê Thị Huyền Diệu, 2010). Mô hình chuyển đổi này được xem là phù hợp với các nền kinh tế đang phát triển như Thái Lan, khi mà các NHTM đang nỗ lực trong việc đổi mới hoạt động quản lý rủi ro tín dụng theo các chuẩn mực quốc tế hiện đại, nhưng đồng thời cũng đang đối mặt với một số hạn chế về quy mô, công nghệ trình độ nhân sự, yếu tố văn hoá… nên không thể hoàn toàn áp dụng mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung. Tại NHTM này, trước đây các bộ phận trong quy trình cấp tín dụng gộp làm một, thì nay ngân hàng đã tách thành hai bộ phận dần có tính độc lập với nhau: bộ phận tiếp nhận và giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định tín dụng. Thêm vào đó, việc quản lý rủi ro tín dụng trên từng khoản vay được tách bạch với quản lý rủi ro trên danh mục tín dụng.
Bộ phận quản lý danh mục tín dụng nói chung, trong đó có quản lý rủi ro nói
riêng tại Bangkok Bank, không có quyền quản lý trực tiếp với từng khoản vay12 và chỉ chịu trách nhiệm về theo dõi, giám sát và thực hiện các giao dịch phòng ngừa rủi ro trên phạm vi toàn danh mục. Tuy vậy, tại NHTM này vẫn đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa bộ phận quản lý rủi ro danh mục tín dụng với bộ phận khách hàng, cụ thể là trong bộ phận khách hàng có một nhóm thường xuyên giữ liên lạc, báo cáo, trao đổi thông tin với bộ phận quản lý rủi ro danh mục. Việc quản lý này vừa vẫn giúp NHTM có khả năng mở rộng tín dụng với khách hàng, lại vừa kiểm soát được tình hình rủi ro của khách hàng trên quan điểm quản lý danh mục để từ đó chọn ra được các khách hàng mục tiêu để cấp tín dụng, bên cạnh đó còn kiểm soát được mức độ tập trung của danh mục một cách thường xuyên, liên tục.
Về nhận diện rủi ro danh mục cho vay
Cùng với các NHTM trong hệ thống, Bangkok Bank thực hiện báo cáo thông tin tín dụng về Cục thông tin tín dụng13, cục này sau đó tập hợp và kết xuất báo cáo về khách hàng vay và lịch sử trả nợ hàng tháng cho ngân hàng khi có yêu cầu. Đây là cơ sở thông tin quan trọng giúp ngân hàng nhận diện sớm rủi ro từ phía khách hàng. Ngoài ra, việc kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng thường xuyên cả trước, trong và sau khi cho vay là công cụ hiệu quả của Bangkok Bank trong
việc phát hiện sớm các rủi ro tín dụng phát sinh với mô hình kiểm tra, giám sát khách hàng được sử dụng chủ yếu là CAMELS (Trương Quốc Doanh, 2007).
2.3.4. Kinh nghiệm của ngân hàng Citibank - Hoa Kì
Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro danh mục cho vay
Ngân hàng Citibank Hoa Kì đi theo mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung. Theo đó hoạt động quản lý rủi ro được tập trung tại Hội sở chính, chịu trách nhiệm cao nhất là Uỷ ban quản lý rủi ro, sau đó được chia thành ba bộ phận chức năng: bộ phận tác nghiệp, bộ phận quản lý rủi ro, bộ phận quản lý nợ.
Uỷ ban quản lý rủi ro
12 NhiệmBvộụpnhàậny tthácuộc về bộ phậnBộtápchnậgnhqiệupảnholýặc bộ phận Bquộảpnhlậýnrủqiuảron từng khoản vay
13 Cục thônngghtiinệptín dụng được tư nhânrhủoi áro
90
lý nợ
Sơ đồ 2.12: Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tín dụng tại Citibank Hoa Kì
Nguồn: www.citigroup.com Nhiệm vụ chính của ba bộ phận trong mô hình tổ chức quản lý rủi ro tín dụng trên như sau:
Bộ phận tác nghiệp: có nhiệm vụ chính là đối thoại, gặp gỡ khách hàng, giúp khách hàng hoàn thiện hồ sơ và các thủ tục vay, đánh giá sơ bộ rủi ro và thực hiện cho vay khách hàng. Các giao dịch này được thực hiện trong phạm vi yêu cầu của chính sách tín dụng cũng như đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín dụng.
Bộ phận quản lý rủi ro: có ba nhiệm vụ chính là đánh giá khách hàng, xét duyệt và thông qua khoản vay, và xây dựng mức rủi ro có thể chấp nhận được của ngân hàng.
Bộ phận quản lý nợ: có bốn nhiệm vụ chính là quản lý hồ sơ, kiểm tra việc thanh toán gốc và lãi; quản lý thời gian hoàn trả với từng khoản vay; kiểm tra và định giá lại các khoản thế chấp, và quản lý trạng thái dư nợ.
Tại Citibank Hoa Kì, bộ phận có thẩm quyền cao nhất trong quản lý rủi ro tín dụng là Uỷ ban quản lý rủi ro. Nhiệm vụ của Uỷ ban này là trợ giúp Ban điều hành với hai nhiệm vụ chính là:
(i) Đưa ra khung quản lý rủi ro, bao gồm các chính sách và điều khoản thực hiện về các loại rủi ro trong ngân hàng, trong đó có rủi ro tín dụng.
(ii) Giám sát hoạt động của Bộ phận quản lý rủi ro tín dụng (Fundamental Credit Risk) bằng việc rà soát lại các chức năng quản lý rủi ro tín dụng của bộ phận này.
Trong khi đó về phía các đơn vị kinh doanh/chi nhánh ngân hàng, các bộ phận kinh doanh chịu trách nhiệm thiết kế, thực hiện và duy trì các chương trình quản