Các Công Trình Nghiên Cứu Đề Cập Vai Trò Của Du Lịch


động - thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị văn hóa (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này [127, tr.13]. Còn theo Hiệp hội Du lịch sinh thái (The International Ecotourism society): Du lịch sinh thái là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương [127, tr.14].

Du lịch kinh doanh là đi du lịch nhưng liên quan đến hoạt động kinh doanh.

Du lịch y tế là tìm kiếm cách điều trị đặc biệt, cách xa nhà, đi nơi khác.

Du lịch giáo dục là du lịch có mục đích là học ngôn ngữ và văn hóa hay lịch sử của các nước hay thành phố khác ở nơi đến.

Ngoài ra còn có các bài viết khác cũng bàn về các loại hình du lịch như: Du lịch mạo hiểm, du lịch kinh doanh, du lịch sinh nở, du lịch ẩm thực, du lịch văn hóa, du lịch đen, du lịch thiên tai, du lịch sinh thái, du lịch y tế, du lịch biển, du lịch tôn giáo, du lịch tình dục, du lịch khu ổ chuột, du lịch không gian, du lịch thể thao, du lịch ảo, du lịch chiến tranh, ….

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu đề cập vai trò của du lịch

Priya Chetty, Advantages of demand forecast for the tourism industry, English Về vai trò của du lịch, Salvo Creaco [143] cho rằng: Du lịch bây giờ là một trong những ngành công nghiệp lớn nhất thế giới và là một trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất. Đối với nhiều quốc gia, du lịch được coi là một công cụ chính cho sự phát triển của khu vực vì nó kích thích các hoạt động kinh tế mới. Du lịch có thể có tác động tích cực về kinh tế đối với cán cân thanh toán, về việc làm, thu nhập và sản xuất, nhưng cũng có thể có những tác động tiêu cực, đặc biệt đối với môi trường.

Lelei Lelulu [140].- Chủ tịch Đối tác quốc tế thì khẳng định: Du lịch là phương tiện chuyển giao của cải tự nhiên lớn nhất từ các nước giàu sang các nước nghèo… Khoản tiền do du khách mang lại cho các khu vực còn nghèo khổ còn lớn hơn viện trợ chính thức của các chính phủ.

Priya Chetty, Advantages of demand forecast for the tourism industry, English [143]. Về vai trò dự báo phát triển du lịch, Priya Chetty khẳng định: "Dự báo phát triển du lịch có giá trị kinh tế lớn đối với cả khu vực công và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.


khu vực tư nhân. Bất kỳ thông tin liên quan đến sự tiến triển trong tương lai của dòng chảy du lịch là rất quan trọng đối với khách sạn, nhà điều hành tour du lịch và các ngành công nghiệp khác liên quan đến du lịch"; v.v

Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh Bo Kẹo Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào - 3

William Theobald, Du lịch toàn cầu - Thập kỷ tới (Global Tourism - The next decade) [149] đã bàn về vai trò du lịch đối với hòa bình thế giới. Tác giả đã làm rõ du lịch là một trong những nguồn lực lớn thúc đẩy nền hòa bình, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau.

S.Medlik [145] đề cập về khái niệm sản phẩm, sự cạnh tranh trong ngành hàng không, sự quảng bá sản phẩm và điểm đến, sự quản lý du lịch, giới hạn cũng như thách thức đối với ngành du lịch.

Mechthild Kuellmer (2007), Economic Success of Tourism, Muenster University [141], cho rằng du lịch là một trong những ngành phát triển nhanh nhất trên thế giới ngày nay. Nghiên cứu này khảo sát sự thành công kinh tế du lịch ở hai nước Peru, Bồ Đào Nha và cho rằng du lịch tùy thuộc vào hành chính công, đó là lý do tại sao nó là một chủ đề quan trọng. Các nghiên cứu của điều tra bao gồm đóng góp của du lịch vào nền kinh tế của đất nước cùng với chiến lược tiếp thị, cũng như những vấn đề liên quan đến du lịch. Những phát hiện này bao gồm QLNN về du lịch trong quốc gia, các bằng chứng về sự thành công kinh tế từ hoạt động du lịch, và hơn nữa phát triển các nguồn khách hàng tiềm năng của du lịch đối với nền kinh tế.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu đề cập kinh tế du lịch

Trần Văn Mậu (2001), Tổ chức phục vụ các dịch vụ du lịch, theo tác giả Robert Lanquar [106] kinh tế du lịch đó là ngành công nghiệp vì toàn bộ hoạt động nhằm khai thác các của cải của du lịch, nhằm biến các tài nguyên nhân lực, tư bản và nguyên liệu thành dịch vụ và sản phẩm. Đồng thời, tác giả cuốn sách đã giới thiệu những vấn đề về yêu cầu, sự tiêu dùng của du lịch, sản xuất cho du lịch, đầu tư du lịch.

William S. Reece, [148], Kinh tế du lịch (The Economics of Tourism) tác giả sử dụng phân tích kinh tế hiện đại để giúp người đọc hiểu được ngành công nghiệp du lịch, làm thế nào để hiểu được hành vi thị trường du lịch, đề cập đến thay đổi kỹ


thuật vì nó liên quan tới việc điều chỉnh mô hình kinh doanh và chiến lược, giải thích rõ ràng về quản lý doanh thu.

John Ward, Phil Higson và William Campbell trong nghiên cứu "Giải trí và Du lịch (Leisure and Tourism)" [138] đã nghiên cứu về ngành công nghiệp du lịch và giải trí thông qua việc phân tích các hình mẫu và xu hướng, các sản phẩm và dịch vụ trong ngành du lịch và giải trí cũng như các tác động của nó đến kinh tế, xã hội, văn hóa hay môi trường.

W. Susan [146] đưa ra khái niệm và phân tích nguồn gốc của ngành thương mại giải trí và du lịch, trong đó tác giả nêu ra các tên gọi đa dạng được sử dụng để miêu tả về ngành thương mại giải trí và du lịch; miêu tả sứ mệnh của ngành này; giải thích sự khác biệt giữa sản phẩm và dịch vụ; giới thiệu những địa điểm mà thương mại giải trí và du lịch có thể diễn ra; giới thiệu các cơ hội nghề nghiệp cho các ứng viên tốt nghiệp ngành này. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến vấn đề quản lý và tổ chức sự kiện, vấn đề về lưu trú; thực phẩm và đồ uống, vấn đề quản lý nghề nghiệp, đồng thời cuốn sách cũng phân tích về các ngành công nghiệp có tính chất tương đồng.

Đỗ Cẩm Thơ Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Việt Nam có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế, [122], các tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về cạnh tranh sản phẩm du lịch; Phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam theo 2 tiêu chí: cấu thành sản phẩm chung của điểm đến và sản phẩm theo các loại hình du lịch. Các tác giả cũng đã đề xuất khái niệm sản phẩm du lịch tổng thể và mô hình 10 tiêu chí đánh giá so sánh cạnh tranh sản phẩm du lịch bao gồm: i) Tính hấp dẫn và độc đáo của tài nguyên du lịch; ii) Tính đa dạng của dịch vụ du lịch; iii) Chất lượng sản phẩm du lịch; iv) Tổ chức xây dựng sản phẩm du lịch; v) Đầu tư xúc tiến sản phẩm du lịch; vi) Giá sản phẩm du lịch; vii) Khả năng tiếp cận sản phẩm; viii) Thương hiệu sản phẩm du lịch; ix) Chu kỳ sống của sản phẩm du lịch; x) Yếu tố đặc biệt của sản phẩm du lịch. Đề tài còn đề xuất hệ thống giải pháp chủ yếu góp phần tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trên thị trường trong thời hạn ngắn; đồng thời, đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cho thời hạn dài hơn.


Hoàng Thị Ngọc Lan, Thị trường du lịch tỉnh Hà Tây, [98]. xác định cầu du lịch là bộ phận nhu cầu xã hội có khả năng thanh toán về dịch vụ hàng hóa, đảm bảo sự đi lại, lưu trú tạm thời của du khách ngoài nơi ở thường xuyên của họ nhằm mục đích du lịch

Bài viết "Một số vấn đề nên quan tâm trong sự phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng" của tác giả Ăm Pay Số La Thí [44]. Tác giả đưa ra quan niệm về du lịch cộng đồng như một phương thức phát triển du lịch bền vững. Du lịch cộng đồng địa phương có sự tham gia trực tiếp của dân trong hoạt động du lịch; phân tích các nguyên tắc đặc điểm của du lịch cộng đồng, vai trò của du lịch cộng đồng trong phát triển cộng đồng, bảo tồn, tôn tạo tài nguyên du lịch và phát triển kinh tế du lịch theo hướng bền vững.

Bài viết "Xúc tiến du lịch ở tỉnh Khăm Muôn" của tác giả Ma Nô Thoong Pông Sa Văn [33]. Tác giả phân tích du lịch và xúc tiến du lịch, cho du lịch là một ngành kinh tế rất quan trọng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội quốc gia của đất nước và địa phương, nó mang lợi ích và thu hút ngoại tệ cho đất nước.

Bài viết "Sự phát triển khu du lịch tự nhiên ở tỉnh Sa La Văn" của tác giả Pun Sắc Say Nha Sến [36]. Tác giả chỉ ra lợi thế phát triển du lịch tự nhiên ở tỉnh và tập trung vào các nhân tố như thị trường khách du lịch, thu nhập du lịch, sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và không gian du lịch, công tác quảng bá du lịch.

Bài viết "Du lịch là một ưu tiên của sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Xiêng Khoảng" của tác giả Khăm Cọn Ua Nuôn Sa [32]. Tác giả giới thiệu về địa lý vị trí của tỉnh và lợi thế về mặt du lịch tự nhiên, du lịch lịch sử, du lịch văn hóa nổi tiếng, tiêu biểu nổi bật là điểm du lịch Cảnh Đồng Chum trong tương lai sẽ trở thành di sản thế giới là điều kiện quảng bá thu hút khách du lịch đến Xiêng Khoảng.

Bài viết "Phát triển khu di sản quốc gia ở huyện Viêng Xay tỉnh Hùa Phăn trở thành điểm du lịch lịch sử" của tác giả Thoong Sa Văn Bun Lớt [66]. Tác giả


hệ thống một số nội dung lý luận về di sản quốc gia và về du lịch lịch sử, các quy đinh hợp lý quốc tế về bảo vệ di sản; phân tích mối quan hệ tương tác hai chiều giữa du lịch lịch sử và di sản quốc gia, những thuận lợi và thách thức đặt ra từ phát triển du lịch lịch sử đối với việc bảo vệ nguyên trạng di sản quốc gia ở huyện Viêng Xay tỉnh Hùa Phăn.

Bài viết "Lợi thế về du lịch ở tỉnh Xiêng Khoảng đang chờ đợi sự phát triển" của tác giả Bun Lươn Văn Na Hắc [15]. Tác giả đưa ra lợi thế phát triển du lịch của tỉnh Xiêng Khoảng Một là: Quảng bá về lịch sử vẻ vang của dân tộc để quản lý tốt vấn đề này thì phải chú ý đến việc thiết kế các công trình tu dưỡng nghiên cứu kỹ. Hai là: Tài nguyên du lịch như các điểm du lịch thiên nhiên phải tạo ý thức cho người dân các dân tộc biết giữ gìn, bảo vệ và sử dùng tài nguyên được lâu dài và bền vững. Ba là: Về văn hóa phong tục tập quán, di sản văn hóa tốt đẹp phải được quan tâm bảo tồn, tôn tạo.

Larry Dwyer, Peter Forsyth và Wayne Dwyer Kinh tế du lịch và chính sách (Tourism Economics and Policy) [139], bàn về kinh tế du lịch và chính sách từ đó kết hợp giải quyết toàn diện khái niệm kinh tế và ứng dụng trong bối cảnh du lịch trên thế giới phát triển. Các tác giả tập trung chỉ ra nhu cầu du lịch và dự báo, nguồn cung cấp du lịch và giá, đo lường tác động và lợi ích của những thay đổi trong nhu cầu du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch và thuế du lịch, hàng không, du lịch và môi trường (bao gồm cả biến đổi khí hậu) và năng lực cạnh tranh điểm đến. Từ đó cung cấp cơ sở để hiểu được sự liên quan của phân tích kinh tế và việc để các giải pháp của vấn đề du lịch trong thực tế cuộc sống và hoạch định chính sách du lịch.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến du lịch

Ở một khía cạnh khác, các công trình nghiên cứu cũng đề cập đến các nhân tố tác động đến du lịch. Nhiều nhà khoa học đã khẳng định đến sự tác động của những điều kiện chung đến sự phát triển du lịch: Du lịch là một ngành công nghiệp phát triển nhanh với kết quả kinh tế, xã hội và chính trị. Giao lưu văn


hoá, hòa bình, thiện chí và hiểu biết được coi là những tác động tích cực của các luồng du lịch quốc tế. Các điểm thu hút tự nhiên, văn hóa, vị trí địa lý, hệ thống giao thông thuận lợi, sự an toàn xã hội và an ninh chính trị ảnh hưởng đến nhu cầu du lịch và đích đến. An ninh chính trị và an toàn xã hội cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phát triển du lịch.

Phonemany Soukhathammavong trong"Phát triển du lịch sinh thái tại Lào, một số nghiên cứu tại tỉnh Khăm Muân" [34], đánh giá vai trò du lịch gắn với bảo vệ môi trường tạo ra lợi ích kép: khuyến khích sử dụng dịch vụ sản phẩm địa phương, giảm chất thải, rác thải, khai thác hợp lý cảnh quan du lịch và gắn chặt bảo vệ môi trường ở địa phương cũng như ở CHDCND Lào.

Trong công trình "Giải trí và Du lịch" (Leisure and Tourism) [138], các tác giả đề cập đến vấn đề tiếp thị, cung cấp các dịch vụ thông tin quản lý, việc lên kế hoạch và đánh giá các sự kiện cũng như các nguồn cơ sở hạ tầng cho các dự án du lịch, giải trí. Tác giả Stephen J. Page và Don Getz (1997), đã nghiên cứu, phân tích về vấn đề tài chính cũng như quảng bá cho du lịch tại khu vực nông thôn.

John Tribe (1995), trong nghiên cứu "Kinh tế học về giải trí và du lịch (The Economics of Leisure and Tourism)" [137] đã làm rõ các vấn đề về tổ chức và quảng bá hoạt động giải trí và du lịch; nghiên cứu về du lịch, du lịch giải trí ngoài trời, marketing du lịch ở các nước đang phát triển.

Trong bài "Phát triển du lịch văn hóa ở tỉnh Chăm Pa Sắc" của tác giả Phon Xay Sa May In Sỉ Mon [35] đã phân tích những tác động ảnh hưởng của các loại hình du lịch văn hóa đối với sự phát triển một số vùng, khu vực kinh tế, xã hội của tỉnh. Những tác động ảnh hưởng đó theo hướng tích cực hay hạn chế, đóng góp ở mức độ nào cho sự phát triển bền vững của một số vùng, khu vực tùy thuộc vào các loại hình du lịch văn hóa cụ thể có được tổ chức tốt và được quản lý khoa học, cân đối giữa khai thác và bảo tồn giá trị văn hóa, phát huy được yếu tố tích cực của giá trị văn hóa và huy động được sự tham gia tích cực của cộng đồng trong các hoạt động du lịch hay không. Khi các khía cạnh bền vững được thể hiện trong du lịch văn hóa thì sự đóng góp du lịch văn hóa đó cho sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương mang tính bền vững.


Công trình "Lợi thế về du lịch ở tỉnh Xiêng Khoảng đang chờ đợi sự phát triển" của tác giả Bun Lươn Văn Na Hắc [15]. Tác giả đưa ra lợi thế phát triển du lịch của tỉnh Xiêng Khoảng. Một là: Quảng bá về lịch sử vẻ vang của dân tộc để quản lý tốt vấn đề này thì phải chú ý đến việc thiết kế các công trình tu dưỡng nghiên cứu kỹ. Hai là: Tài nguyên du lịch như các điểm du lịch thiên nhiên phải tạo ý thức cho người dân các dân tộc biết giữ gìn, bảo vệ và sử dùng tài nguyên được lâu dài và bền vững. Ba là: Về văn hóa phong tục tập quán, di sản văn hóa tốt đẹp phải được quan tâm bảo tồn, tôn tạo. Tóm lại những di tích lịch sử và nguồn tài nguyên quý giá của du lịch, ngành kinh tế - du lịch kết hợp với tiềm năng khác của tỉnh đã có bước phát triển khá toàn diện và bền vững. Đồng thời tác giả đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương và các ngành đã liên quan có định hướng và kế hoạch phát triển kinh tế du lịch đúng hướng.

Bài viết "Du lịch là một ưu tiên của sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Xiêng Khoảng" của tác giả Khăm Cọn Ua Nuôn Sa [32]. Tác giả giới thiệu về địa lý vị trí của tỉnh và lợi thế về mặt du lịch tự nhiên, du lịch lịch sử, du lịch văn hóa nổi tiếng, tiêu biểu nổi bật là điểm du lịch Cảnh Đồng Chum trong tương lai sẽ trở thành di sản thế giới là điều kiện quảng bá thu hút khách du lịch đến Xiêng Khoảng. Nội dung là đề cập đến vai trò và tầm quan trọng của kinh tế du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Xiêng khoảng, trong đó tác giả nhấn mạnh về số lượng khách du lịch và tổng thu nhập từ du lịch những năm 2011 - 2012 đó là một con số thu nhập góp phần vào ngân sách của tỉnh để giúp cho tỉnh phát triển kinh tế - xã hội trong địa bàn của mình.

Trong công trình "Một số vấn đề tác động tiêu cực từ du lịch ở tỉnh Luông Pa Bang" của tác giả Seng Ma Ni Phết Sa Vông [43]. Tác giả phân tích tình hình phát triển kinh tế du lịch của tỉnh trong thời gian gần đây, từ đó khẳng định phát triển kinh tế du lịch của tỉnh có một số vấn đề tác động tiêu cực đến một số mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực như sau: (i) Tác động của du lịch đến kinh tế, là mặc dù thu nhập từ du lịch được nhiều nhưng giá sinh hoạt ở đó ngày càng tăng lên làm cho cuộc sống của người dân có thu nhập thấp ở khu vực đó


gặp nhiều khó khăn và tăng chi phí cho hoạt động công an, cứu hỏa, dịch vụ y tế, sửa chữa, bảo trì hệ thống đường giao thông, dịch vụ công khác; (ii) Tác động của du lịch đến xã hội là xã hội có sự thay đổi làm cho người dân bỏ nghề nghiệp cũ, xảy ra tệ nạn mại dâm, buôn lậu, ma túy, cờ bạc, mất trật tự công cộng và có thể gây sự lây truyền một số bệnh tật; (iii) Tác động của du lịch đến văn hóa là có thể làm xói mòn hoặc mất đi bản sắc văn hóa địa phương, bản sắc văn hóa dân tộc và làm cho phong tục tập quán suy bại, ăn mặc không đúng kiểu truyền thống; (iv) Tác động của du lịch đến môi trường là có thể gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và xảy ra ô nhiễm không khí, tiếng ồn ào, nước thải, rải rác…

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ CẬP ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH

1.2.1. Các công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm quản lý du lịch

Quản lý là một phạm trù có liên quan mật thiết đến phân công và hiệp tác lao động. C.Mác đã coi sự xuất hiện của quản lý như là một kết quả tất yếu của sự chuyển nhiều lao động, nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình lao động xã hội được phối hợp lại. Ông viết: "bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên quy mô khá lớn đều yêu cầu có sự chỉ đạo để điều hoà hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng chung, tức là chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng". Như vậy, C.Mác đã chỉ ra rằng chức năng của quản lý thể hiện ở sự kết hợp một cách hợp lý các yếu tố cơ bản của sản xuất, ở chỗ xác lập một sự ăn khớp về hoạt động giữa những người lao động riêng biệt. Nếu chức năng này không được thực hiện thì quá trình hợp lý của lao động hợp tác không thể tiến hành được.

Phan Huy Đường, Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Harol Koontz [83] cho rằng: "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những người khác". Mary Parker Follett [83] định nghĩa quản lý là "nghệ thuật khiến công việc được làm bởi người khác".

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/03/2023