Cơ Sở Lý Luận Quản Lý Nhà Nước Đối Với Kinh Tế Du Lịch


Thứ hai, phát triển kinh tế du lịch không đúng cách có thể tạo ra sự lai căng về văn hóa, lối sống, làm lu mờ giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc: Phát triển du lịch đem lại cơ hội giao thoa giữa các nền văn hóa nhưng cũng làm phát sinh xung đột về giá trị, bản sắc văn hóa, truyền thống dân tộc. Đôi khi, khách du lịch nước ngoài khi đến nước sở tại họ mang theo nguồn thu nhập đáng kể và những giá trị đặc sắc của các nền văn hóa trên thế giới nhưng đồng thời cũng mang theo cả những quan niệm, ứng xử, lối sống không phù hợp với văn hóa nước sở tại cũng như không phù hợp với tiến bộ xã hội, thậm chí là phản văn hóa.

Thứ ba, phát triển kinh tế du lịch không phù hợp và cân đối có thể làm gia tăng sự bất bình đẳng xã hội: Một trong những biểu hiện rõ nhất nguy cơ này trong phát triển kinh tế du lịch ở nước ta trong thời gian qua là việc xây dựng một số dự án, công trình du lịch lớn như sân golf, khu nghỉ dưỡng cao cấp… tốn rất nhiều diện tích, buộc chính quyền địa phương phải thu hồi đất của người dân để giao cho dự án, trong đó chủ yếu là đất canh tác. Đã có nhiều người dân mất đất, không còn phương tiện để sản xuất và lâm vào tình trạng không có việc làm, bị bần cùng hóa. Thực tế đã nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều vụ kiện tụng đông người, phức tạp và kéo dài xung quanh vấn đề này.

Thứ tư, phát triển kinh tế du lịch không đúng cách và thiếu bền vững sẽ tác hại đến môi trường văn hóa và môi trường tự nhiên: Nếu các hoạt động kinh doanh du lịch chạy theo lợi nhuận, làm ăn chộp giật, chỉ tập trung khai thác mà không chú ý duy tu, tái tạo các công trình, cảnh quan thì sẽ sớm làm suy kiệt nguồn tài nguyên du lịch, gây ô nhiễm nặng nề môi trường du lịch. Ngay cả trong trường hợp ý thức được điều này nhưng nhận thức và cách làm không đúng, cũng dẫn đến việc xâm hại, thậm chí là phá hỏng, hủy hoại hoàn toàn các di tích, danh lam thắng cảnh của đất nước.


Thứ năm, phát triển kinh tế du lịch mà thiếu sự kiểm soát, quản lý chặt chẽ của các cơ quan chức năng có liên quan đối với các hoạt động phát triển du lịch có thể làm phát sinh các tệ nạn xã hội như: ma túy, mại dâm, cá độ, cờ bạc, rửa tiền và nhiều loại tội phạm, tệ nạn xã hội khác- những “ngành nghề” ăn theo sự phát triển của du lịch nếu chúng ta buông lỏng sự quản lý nhà nước trên lĩnh vực này.

1.2. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

Theo Giáo trình Kinh tế Du lịch của trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2009), Quản lý nhà nước (QLNN) đối với kinh tế du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh liên tục bằng quyền lực pháp luật Nhà nước dựa trên cơ sở nền tảng của thể chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động du lịch nhằm đạt được hiệu quả và mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước đặt ra.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

Dưới góc độ hành chính- kinh tế, QLNN đối với kinh tế du lịch được hiểu là hoạt động, là quá trình chỉ đạo, điều hành, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh du lịch bằng việc thông qua hệ thống pháp luật, các chủ thể QLNN (các cơ quan có thẩm quyền) tác động tới các đối tượng quản lý trong quá trình kinh doanh hoạt động du lịch nhằm định hướng cho hoạt động du lịch vận động, phát triển theo mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước đặt ra. Như vậy, QLNN đối với kinh tế du lịch có các thành tố sau đây:

- Chủ thể quản lý: Là các cơ quan đại diện của Nhà nước hoặc được Nhà nước trao quyền, ủy quyền, đây là các chủ thể duy nhất trong QLNN về kinh tế du lịch. Chủ thể QLNN về kinh tế du lịch là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL), các ngành liên quan như Công an, Y tế, Môi trường,

Quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội - 4


Lao động, Bảo hiểm,... và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trong cả nước (một số tỉnh, thành phố thành lập riêng Sở Du lịch).

- Đối tượng (khách thể) quản lý: là các hoạt động, quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh tế du lịch.

- Mục đích QLNN đối với kinh tế du lịch: Đảm bảo ngành kinh tế du lịch phát triển theo một trật tự chung, nhằm bảo đảm lợi ích của mọi cá nhân, tổ chức cũng như lợi ích chung của toàn xã hội.

- Công cụ quản lý: Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện quản lý đối với kinh tế du lịch bằng hê thống các quy định của pháp luật và các công cụ quản lý khác như chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch,...

1.2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

Thứ nhất, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch diễn ra trong nền kinh tế thị trường.

Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tính phức tạp, năng động và nhạy cảm. Vì vậy, ngành kinh tế du lịch đòi hỏi phải có một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai khác chính là Nhà nước- vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức hoạt động du lịch. Để hoàn thành trách nhiệm của mình, Nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển,... Sử dụng các công cụ này để tổ chức và QLNN đối với kinh tế du lịch.

Thứ hai, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế du lịch là cơ sở, là những công cụ để Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh du lịch.

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng về chủ thể, hình thức tổ chức và quy mô hoạt động,... Dù phức tạp thế nào đi chăng nữa, sự quản lý của Nhà nước cũng phải bảo đảm cho


hoạt động của ngành kinh tế du lịch có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt. Do đó, Nhà nước phải ban hành pháp luật, đề ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch... và dùng các công cụ này tác động vào lĩnh vực kinh tế du lịch.

Thứ ba, QLNN đối với kinh tế du lịch đòi hỏi phải có một bộ máy Nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có trình độ, năng lực thật sự.

QLNN đối với kinh tế du lịch phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động kinh tế du lịch phát triển. Để thực hiện tốt điều này đòi hỏi tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ QLNN phải ngày càng được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ trung ương đến địa phương.

Thứ tư, QLNN đối với kinh tế du lịch còn xuất phát từ chính nhu cầu khách quan của sự gia tăng vai trò của các chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý kinh tế du lịch trong nền kinh tế thị trường với tư cách là những công cụ quản lý.

Hoạt động của nền kinh tế du lịch với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng động đòi hỏi có một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt khi lượng khách du lịch tăng cao. Trong bối cảnh đó, cần thiết phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ với điều kiện ở trong nước mà còn với thông lệ và luật pháp quốc tế.

1.2.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

Thứ nhất, Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động du lịch: bao gồm các nội dung cơ bản là hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch, phân tích và xây dựng các chính sách du lịch, quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển thị trường, xây dựng hệ thống luật


pháp có liên quan tới du lịch. Xác lập các chương trình, dự án cụ thể hóa chiến lược, đặc biệt là các lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.

Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch.

Chức năng hoạch định của Nhà nước giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương hướng hình thành phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập môi trường kinh doanh, vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh du lịch trên thị trường.

Thứ hai, Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du lịch, sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật,... đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để thực hiện những vấn đề thuộc về QLNN, nhằm đưa chính sách phù hợp về du lịch vào thực tiễn, biến quy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.

Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan QLNN đối với kinh tế du lịch với các cấp trong hệ thống tổ chức quản lý kinh tế du lịch của trung ương, tỉnh (thành phố), và quận (huyện, thị xã).

Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng tổ chức và phối hợp được thể hiện ở sự phối hợp giữa các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế, thương mại du lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hóa đa phương thức quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch, đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký kết.

Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.


Thứ ba, Nhà nước đảm bảo thực hiện chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường.

Nhà nước là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng, khuyến khích và đảm bảo bằng pháp luật cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền. Để thực hiện chức năng này, một mặt, Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định hướng đã vạch ra. Mặt khác, Nhà nước phải can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Trong hoạt động kinh doanh du lịch ở nước ta hiện nay, cạnh tranh chưa bình đẳng, không lành mạnh là một trong những vấn đề gây trở ngại lớn cho quá trình phát triển ngành. Do vậy, Nhà nước phải có vai trò điều tiết mạnh.

Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ.

Thứ tư, Nhà nước có vai trò giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý của các chủ thể đó (về các mặt đăng ký kinh doanh, phương án sản phẩm, chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, môi trường ô nhiễm, cơ chế quản lý kinh doanh, nghĩa vụ nộp thuế, ...), cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt động kinh doanh du lịch.

Kịp thời phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và các quy định của Nhà nước, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác QLNN đối với các họat động kinh doanh du lịch.

Nhà nước cũng phải kiểm tra, đánh giá hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Nhà nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức QLNN đối với kinh tế du lịch.

Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực kinh tế du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, việc bảo


vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong nền kinh tế du lịch.

1.2.2. Mục đích, yêu cầu quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

1.2.2.1. Mục đích quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

QLNN đối với kinh tế du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh liên tục bằng quyền lực pháp luật nhà nước dựa trên cơ sở nền tảng của thể chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động kinh tế du lịch của con người để duy trì và phát triển ngày càng cao các hoạt động du lịch trong nước và du lịch quốc tế nhằm đạt được các hiệu quả kinh tế- xã hội do nhà nước đặt ra.

QLNN đối với kinh tế du lịch là phương thức chỉ đạo, điều hành, điều chỉnh các mối quan hệ thông qua hệ thống pháp luật, các chủ thể quản lý (cơ quan quản lý được Nhà nước ủy quyền) tác động tới các đối tượng bị quản lý tham gia trong quá trình kinh doanh nhằm định hướng cho hoạt động du lịch theo sự vận động, phát triển có mục đích.

Mục đích tổng quát nhất của công tác QLNN đối với kinh tế du lịch là phát triển du lịch bền vững, góp phần quan trọng vào giá trị tổng sản phẩm xã hội, tạo việc làm và thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia và địa phương.

1.2.2.2. Yêu cầu quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch

Xuất phát từ tính chất của các loại hình hoạt động kinh doanh du lịch, công tác QLNN đối với kinh tế du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội cần đáp ứng những yêu cầu sau:

- Đảm bảo ổn định và phát triển thị trường du lịch theo hướng khai thác tối ưu các nguồn lực quốc gia và địa phương.

- Quản lý và hướng các hoạt động kinh doanh du lịch theo đúng pháp luật, cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả.


- Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn, giữ gìn cảnh quan, môi trường, các di tích, điểm du lịch.

- Phát triển các ngành phụ trợ một cách cân đối và đáp ứng các tiêu chuẩn hiện đại.

- Hướng các hoạt động kinh doanh du lịch vào việc thực hiện các mục tiêu quốc gia và địa phương.

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với kinh tế du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội

1.2.3.1. Quản lý nhà nước về định hướng, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành kinh tế du lịch trên địa bàn thành phố Hà Nội

Nội dung này bao gồm việc xây dựng và đề ra các quy hoạch phát triển; xây dựng các kế hoạch và chương trình phát triển; xây dựng các chính sách phát triển. Các công tác này liên quan chặt chẽ với nhau, mỗi một công tác đều có vị trí nhất định trong nhiệm vụ định hướng phát triển của ngành. Trong đó việc xây dựng chiến lược và chính sách là những bộ phận quan trọng nhất và năng động nhất.

Xây dựng và công khai các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế du lịch là một trong những nội dung QLNN có tính quyết định đối với sự phát triển ngành kinh tế du lịch. Nó giúp cho các cá nhân, tổ chức (nhà đầu tư) an tâm khi quyết định đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực du lịch.

Trong hoạt động kinh doanh du lịch, mục tiêu cuối cùng của các đơn vị kinh doanh là lợi nhuận. Do đó, nếu không được định hướng phát triển đúng sẽ gây ra lãng phí, kém hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tế phát triển của từng địa phương, nhất là các hoạt động đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng các khu, điểm du lịch,... hoặc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật như các nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ,... Vì thế, việc xây dựng chính xác, hợp lý và công khai kịp thời các chiến lược, quy hoạch, kế

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 21/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí