Đặc Điểm Của Quản Lý Nhà Nước Về Du Lịch


Thứ hai, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch là những người hoạt động tổ chức lưu trú, phục vụ ăn uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón khách du khách, kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ khác nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Thứ ba, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tức là cơ quan nhà nước và các tổ chức có liên quan tại địa phương du lịch tổ chức quản lý, điều phối, phục vụ hoạt động của khách du lịch và tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh du lịch nhằm đảm bảo cho các đối tượng này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động du lịch theo đúng luật định.

Như vậy, hoạt động du lịch ở đây được tiếp cận bao gồm các dịch vụ trực tiếp và gián tiếp cho du lịch. Ở một chừng mực nhất định, hoạt động du lịch có thể được coi là đồng nghĩa với khái niệm ngành du lịch.

1.1.1.3. Các loại hình du lịch

Căn cứ vào nhu cầu của thị trường và trên cơ sở của tài nguyên du lịch có khả năng khai thác và các điều kiện phát triển du lịch, người ta thường kết hợp các yếu tố này với nhau để xác định các loại hình du lịch. Mục đích của việc xác định các loại hình du lịch nhằm vào việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của quốc gia, của địa phương và định hướng chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch. Hoạt động du lịch diễn ra rất phong phú và đa dạng. Tùy thuộc vào cách phân chia mà có các loại hình du lịch khác nhau. Mỗi loại hình du lịch đều có những tác động nhất định lên môi trường. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động du lịch có sự đan xen giữa các loại hình du lịch trong quá trình phục vụ khách du lịch. Việc phân chia các loại hình du lịch căn cứ vào những tiêu chí sau đây:

* Căn cứ vào phạm vi địa lý lãnh thổ:

Du lịch nội địa: là khách du lịch thực hiện chuyến đi du lịch trong phạm vi quốc gia của mình. Ví dụ: Người Việt Nam đi du lịch tới các điểm du lịch trong nước như Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Sa Pa, v.v.

Du lịch quốc tế: là sự di chuyển từ nước này sang nước khác, du khách phải ra khỏi vùng lãnh thổ biên giới và tiêu bằng ngoại tệ nơi họ đến du lịch.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Ví dụ: người Việt Nam đi sang các nước khác du lịch như Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản,… Trong loại hình du lịch quốc tế, người ta lại chia ra làm hai loại hình du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế thụ động.

* Căn cứ vào mục đích của chuyến đi:

Quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn Thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai - 3

Du lịch tham quan văn hóa - lịch sử: Đây là một loại hình du lịch mang tính phổ biến nhất và cốt lõi của các chương trình du lịch. Con người khi đi du lịch với những mục đích khác nhau, nhưng cái chủ yếu vẫn là tìm hiểu truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, nếp sống của cộng đồng dân cư nơi họ đến du lịch. Vì thế, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn và xã hội ở đây để phục vụ du khách (trong đó có cả khách du lịch trong nước lẫn khách du lịch quốc tế) đóng một vai trò quyết định.

Du lịch nghỉ dưỡng: Du lịch được coi như một phương tiện nhằm tái hồi sức lao động của con người sau những ngày tháng lao động vất vả. Loại hình du lịch nghỉ dưỡng được phân ra thành ba loại khác nhau theo tiêu thức địa lý, đó là: du lịch nghỉ dưỡng ven biển và đảo; du lịch nghỉ dưỡng ở vùng núi và du lịch nghỉ dưỡng ở vùng nước khoáng.

Du lịch công vụ: Đây là loại hình du lịch của những người đi công tác, dự hội nghị, hội thảo, thăm dò đầu tư, thương mại và kết hợp với mục đích du lịch. Số lượng khách đi theo loại hình du lịch này rất lớn và nhiều nước đặt ra mục tiêu là trung tâm hội nghị, hội thảo và triển lãm của thế giới và khu vực.

Du lịch thăm thân nhân: Đây là loại hình du lịch phát triển mạnh mẽ trong điều kiện thế giới rộng mở, con người có thể đi làm việc và định cư ở bất cứ nơi nào trên trái đất, họ mong muốn trở về quê hương để thăm người thân kết hợp với du lịch.

Du lịch chữa bệnh: Là một trong những loại hình du lịch phát triển từ xa xưa, loại hình du lịch này chủ yếu phát triển tại những nơi có nguồn nước khoáng, vùng núi và vùng ven biển với mục tiêu khai thác các tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, không khí, cỏ cây,...) phục vụ việc điều dưỡng và chữa bệnh cho con người.


Du lịch thể thao: Loại hình du lịch này gồm hai nhóm, đó là du lịch thể thao dành cho các vận động viên thi đấu và khách du lịch đi xem các sự kiện thi đấu thể thao. Đối với loại thứ nhất, du lịch phục vụ các đoàn vận động viên đi thi đấu trong các giải thế giới, khu vực hoặc đi tập huấn kết hợp với tham quan du lịch. Loại thứ hai là các cổ động viên, khán giả đi xem các cuộc thi đấu thể thao kết hợp với tham quan du lịch.

Du lịch tôn giáo: Tôn giáo, tín ngưỡng đã hình thành và tồn tại hàng ngàn năm nay. Con người ngoài đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần, trong đó có vấn đề tâm linh. Một bộ phận dân cư đã hình thành các tôn giáo: Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Hồi giáo,... Các tín đồ tôn giáo hình thành nhu cầu tín ngưỡng được bộc lộ rõ nét trong các cuộc hành hương đến nơi có ý nghĩa tâm linh. Xuất phát từ nhu cầu trên, loại hình du lịch tôn giáo đã hình thành, tồn tại lâu đời và phổ biến ở các quốc gia.

Du lịch giải trí: Là một nhu cầu không thể thiếu được của du khách, vì vậy, ngoài thời gian tham quan du khách còn phải được thư giãn, nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe sau khoảng thời gian làm việc căng thẳng, do đó các khu vui chơi cần phải có các chương trình vui chơi giải trí cho du khách.

Du lịch mạo hiểm: Đây là loại hình du lịch giành cho những người yêu thích mạo hiểm để chứng tỏ lòng cam đảm và ý chí kiên cường như: trèo cao, vượt thác, vượt sóng đại dương,... Loại hình du lịch này chủ yếu phát triển ở những nước Châu Âu và Châu Mỹ.

Du lịch sinh thái: Là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Khách du lịch lựa chọn loại hình du lịch này nhằm thưởng thức phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và trở về với đời sống tự nhiên hoang dã.

* Căn cứ vào việc sử dụng các phương tiện vận chuyển khách du lịch, người ta đưa ra hai tiêu chí để xác định loại hình du lịch:


Căn cứ việc sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch đến điểm du lịch: gồm du lịch bằng đường không, du lịch bằng đường bộ, du lịch bằng đường sắt, du lịch bằng tàu biển và du lịch bằng tàu thủy.

Căn cứ vào việc khách du lịch sử dụng phương tiện vận chuyển tại điểm đến du lịch. Các phương tiện vận chuyển khách du lịch tại các khu du lịch, các điểm du lịch rất phong phú và đa dạng, trước hết bằng ô tô, sau đó là các loại xe thô sơ như: xích lô, ngựa kéo, trâu, bò kéo hoặc bằng thuyền, bằng xe kéo bằng ắc quy, cáp treo,...

1.1.2. Quản lý Nhà nước về du lịch

Quản lý nhà nước về du lịch là một lĩnh vực của quản lý nhà nước (QLNN), là hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước nhằm quản lý vi mô các hoạt động du lịch thông qua hệ thống các chính sách, chương trình, văn bản quy phạm pháp luật các văn bản chỉ đạo, điều hành về lĩnh vực du lịch nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực du lịch.

Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp từ những quan điểm khác nhau về quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch, có thể đưa ra định nghĩa tổng quát như sau: “Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước (qua hệ thống pháp luật) đối với các quá trình, hoạt động du lịch của con người để duy trì và phát triển ngày càng cao các hoạt động du lịch trong nước và quốc tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội đặt ra”.

Ở Việt Nam, cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch trong phạm vi cả nước là Tổng cục Du lịch. Tổng cục Du lịch thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý Nhà nước và tổ chức thực thi pháp luật về du lịch trong phạm vi cả nước, quản lý các dịch vụ công về du lịch theo quy định của pháp luật.

1.1.3. Đặc điểm của quản lý nhà nước về du lịch

* Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch diễn ra trong nền kinh tế thị trường.


Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tính phức tạp, năng động và nhạy cảm. Vì vậy, hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai khác chính là Nhà nước - vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức hoạt động du lịch. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch… và sử dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý hoạt động du lịch.

* Hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch… phát triển du lịch là cơ sở, là công cụ để Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động du lịch.

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động… Dù phức tạp thế nào đi chăng nữa, sự quản lý của Nhà nước cũng phải đảm bảo cho hoạt động du lịch có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt. Do đó, Nhà nước phải ban hành pháp luật, đề ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và dùng các công cụ này để tác động vào lĩnh vực du lịch.

* Quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một bộ máy Nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước có trình độ, năng lực thật sự.

Quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch phải tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động du lịch phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ Trung ương đến địa phương.

* Quản lý Nhà nước còn xuất phát từ chính nhu cầu khách quan của sự gia tăng vai trò của chính sách, pháp luật trong nền kinh tế thị trường.


Nền kinh tế thị trường với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng động đòi hỏi có một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt là khi vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là mục tiêu mà các quốc gia hướng tới. Trong bối cảnh đó, phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ với điều kiện ở trong nước mà còn với thông lệ và luật pháp quốc tế. Đây là sự thách thức lớn đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bởi vì, mọi quan hệ hợp tác dù ở bất cứ lĩnh vực nào và với đối tác nào cũng cần có trình tự nhất định và chỉ có thể dựa trên cơ sở chính sách, pháp luật.

1.1.4. Vai trò của quản lý Nhà nước về du lịch

Nhà nước ra đời là nhằm thực hiện vai trò, chức năng quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Bất cứ một lĩnh vực hoạt động nào cũng cần đến sự quản lý, điều tiết của Nhà nước nhằn đảm bảo an ninh trật tự, phát triển kinh tế và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, và du lịch cũng không ngoại lệ. Du lịch là một hiện tượng, một yếu tố cấu thành nên các hình thái kinh tế xã hội. Bên cạnh các quy luật chung, nó hình thành, vận động và phát triển theo những quy luật riêng của mình. Thực chất quá trình quản lý các hoạt động du lịch là việc tác động đến chúng nhằm thực hiện các mục tiêu đã định trước. Chính vì vậy, để đảm bảo cho ngành kinh tế du lịch phát triển ổn định, phát huy được tối đa những lợi ích và những hạn chế, tiêu cực thì cần phải có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước cần thể hiện vai trò của mình để đảm bảo ngành du lịch phát triển theo định hướng, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhà nước là người đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền trong hiến pháp của công dân nói chung và văn hóa nói riêng, điều tiết sự phát triển hài hòa, phù hợp với sự phát triển của du lịch, lợi ích văn hóa của các nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn du lịch của các dân tộc, các vùng miền trên lãnh thổ cả nước. Nhà nước sử dụng tất cả các biện pháp có thể để can thiệp vào hoạt động du lịch nhằm tạo ra môi trường du lịch lành mạnh, phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội


một cách hài hòa, phù hợp với giá trị và văn hóa của một quốc gia, một vùng, một địa phương.

Mặt khác, với tính chất mà một ngành kinh tế - xã hội mang lại những hiệu quả tổng hợp, cũng như các ngành kinh tế khác, du lịch muốn phát triển bền vững không thể đặt ngoài sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Sự quản lý của nhà nước đảm bảo cho du lịch phát triển ổn định, phát huy tối đa những lợi thế và hạn chế của những mặt trái. Điều này xuất phát từbản chất của du lịch là một lĩnh vực kinh tế mang tính đặc thù rõ nét, bên cạnh các quy luật chung, du lịch được hình thành, vận động và phát triển theo những quy luật riêng của mình. Theo đó, ngoài những tác động tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước, hoạt động này cũng làm nảy sinh nhiều mặt tiêu cực, đặc biệt là đối với môi trường. Chính vì vậy, để đảm bảo cho ngành du lịch phát triển không thể thiếu sự quản lý của nhà nước.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, du lịch có quan hệ chặt chẽ với các ngành khác như giao thông, thuế, tài chính, điện, bưu điện… Mối quan hệ giữa chúng là mối quan hệ qua lại chặt chẽ, sự phát triển của du lịch thúc đẩy các ngành khác phát triển và ngược lại, sự phát triển của các ngành khác góp phần không nhỏ để du lịch phát triển. Do vậy, phải xác định phát triển du lịch là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành có liên quan, đồng thời có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ để phát huy một cách có hiệu quả mối quan hệ giữa du lịch và các ngành khác. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước có liên quan đến hoạt động du lịch sẽ tạo hiệu quả rộng lớn hơn, thúc đẩy tăng trưởng các yếu tố tích cực, hạn chế, khắc phục các yếu tố tiêu cực do hoạt động kinh doanh du lịch mang lại. Sự phối hợp này thể hiện thông qua việc xây dựng các quy chế liên ngành giữa các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch (Sở Du lịch, UBND các huyện thị) với các cơ quan ban ngành có liên quan như Điện, Bưu điện, Giao thông, tài chính… nhằm tạo ra cơ chế “một cửa” trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với du lịch và các hoạt động liên quan.


Nhà nước định hướng sự phát triển của du lịch bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của hoạt động du lịch và ngành du lịch. Cụ thể là Nhà nước không buông lỏng hay thả nối công tác quy hoạch, kế hoạch nhưng phải đổi mới công tác đó cho phù hợp với yêu cầu xã hội, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cần phát huy tối đa mọi lợi thế về du lịch và cáchoạt động phục vụ du lịch của quốc gia, vùng và địa phương. Thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội nói chung và của ngành du lịch nói riêng. Thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành du lịch, nhà nước sẽ định hướng cho các hoạt động du lịch phát triển theo hướng tích cực với việc khai thác hiệu quả và bền vững các tài nguyên du lịch, nhất là tài nguyên du lịch tự nhiên và lịch sử.

Sự quản lý của nhà nước sẽ giúp cho các chủ thể kinh doanh du lịch hoạt động trong khuôn khổ cho phép, xóa bỏ dần các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn minh, hoặc đơn thuần chỉ chạy theo lợi nhuận mà phá hoại môi trường sinh thái, gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội.

Cơ quan quản lý nhà nước không chỉ đơn thuần là kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp mà còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được phát triển hoạt động kinh doanh của mình.

Du lịch là hoạt động liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, nếu buông lỏng quản lý nhà nước để tự nó phát triển, hoạt động du lịch sẽ bị chệch hướng, thị trường bị lũng đoạn, tài nguyên du lịch bị khai thác kiệt quệ, không đảm bảo phát triển du lịch bền vững.

Như vậy, quản lý nhà nước về du lịch là việc làm không thể thiếu và thực sự rất cần thiết đối vợi sự phát triển của đất nước nói chung và sự phát triển của ngành du lịch nói riêng.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí