Bối Cảnh, Quan Điểm Và Định Hướng Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Đối Với Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng Ở Một Số Tỉnh Vùng Tây Bắc, Việt Nam


3.3.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân

a) Một số hạn chế

Ngoài các kết quả tích cực đã thu được, QLNN đối với PTDLCĐ ở một số tỉnh vùng Tây Bắc còn bộc lộ những hạn chế nhất định:

- Hoạt động tuyên truyền và phổ biến chính sách, pháp luật về du lịch đến người dân, hoạt động nâng cao nhận thức về vai trò của DLCĐ trong phát triển KTXH, đóng góp cho giảm nghèo của những đối tượng tham gia vào hoạt động DLCĐ tuy đã được thực hiện, nhưng hiệu quả chưa cao, còn khoảng cách so với yêu cầu phát triển DLCĐ.

- Chính sách hỗ trợ cho PTDLCĐ chưa được ban hành đầy đủ ở các địa phương. Tính khả thi của các chính sách đã ban hành chưa cao, thể hiện ở: khả năng, mức độ bố trí về nguồn lực cho PTDLCĐ và mức độ đầy đủ, phù hợp của chính sách hỗ trợ cho các đối tượng, lĩnh vực ở tất cả các địa phương Tây Bắc. Việc các chính sách hỗ trợ chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của các đối tượng hưởng thụ dẫn đến khó thu hút các thành phần kinh tế tham gia PTDLCĐ.

- Các quy hoạch PTDL, PTDLCĐ được xây dựng là cơ sở để địa phương quản lý, đầu tư và kiểm soát những hoạt động PTDLCĐ. Tuy nhiên, các quy hoạch này nhìn chung còn chậm được điều chỉnh để phù hợp với thực tế phát triển; khả năng đo lường, giám sát việc hoàn thành các mục tiêu của phát triển DLCĐ còn ở mức thấp, các định hướng phát triển sản phẩm DLCĐ được đề ra trong các quy hoạch chưa hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thị trường.

- Kết quả triển khai những quy hoạch, đề án về phát triển DLCĐ còn có những hạn chế nhất định, thể hiện ở số lượng các điểm DLCĐ đưa vào hoạt động còn ít so với mục tiêu đặt ra; hạ tầng du lịch chưa được cải thiện nhiều so với mục tiêu của quy hoạch. Những năm qua, hạ tầng giao thông ở vùng Tây Bắc đã được phát triển, song nói chung còn yếu kém; đặc biệt hạ tầng giao thông đến các khu, điểm sở hữu tiềm năng PTDL, hạ tầng giao thông đến các điểm DLCĐ chưa được cải thiện nhiều, chưa đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.

- Nguồn nhân lực DLCĐ cả ở cấp QLNN và lao động tại doanh nghiệp ở các địa phương vùng Tây Bắc vẫn chưa bảo đảm cả về chất lượng cũng như số lượng; tỷ trọng lao động qua đào tạo còn thấp.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

- Hoạt động hợp tác trong nước và ngoài nước về QLNN đối với DLCĐ tuy đã được chú ý, song chưa đạt nhiều hiệu quả. Liên kết trong QLNN đối với PTDL giữa các địa phương còn yếu, các tỉnh trong khu vực vẫn chỉ chú ý đến các hoạt động QLNN của mình mà chưa quan tâm đúng mức đến sự liên kết, khai thác lợi thế chung của khu vực, thiếu sự hợp tác nội vùng trong xây dựng và triển khai quy hoạch, đề án về PTDLCĐ.

b) Nguyên nhân của những hạn chế

Quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng ở một số tỉnh vùng Tây Bắc, Việt Nam - 17

- Nguyên nhân khách quan:

Nhà nước chưa có các chính sách cụ thể về hỗ trợ CĐDC phát triển kinh tế thông qua du lịch, khai thác những yếu tố văn hóa truyền thống phục vụ PTDL. Cho đến nay, hầu hết những chính sách vĩ mô của Nhà nước về phát triển KTXH đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chủ yếu tập trung cho việc nâng cao điều kiện KTXH và đời sống cho bà con, hỗ trợ gìn giữ văn hóa dân tộc... Những chính sách để hỗ trợ CĐDC cải thiện cuộc sống thông qua du lịch, khai thác những yếu tố văn hóa truyền thống cho PTDL chưa được hình thành rõ rệt. Vì vậy, vùng Tây Bắc còn gặp không ít khó khăn trong quản lý và PTDLCĐ.

Thiếu nguồn lực cho đầu tư xây dựng CSVCKTDL cho PTDLCĐ. Các tỉnh vùng Tây Bắc vẫn là các tỉnh nghèo, hầu hết chưa tự cân đối ngân sách. Vì thế, nguồn lực đầu tư cho hạ tầng, cũng như cho đào tạo nguồn nhân lực DLCĐ của các tỉnh vùng Tây Bắc phải dựa chủ yếu vào ngân sách Trung ương. Trong khi đó, ngân sách cho đầu tư hạ tầng các năm gần đây không đủ so với yêu cầu của các quy hoạch KTXH, các quy hoạch ngành, đặc biệt các quy hoạch KDLQG trên địa bàn đã ban hành.

Hệ thống các tiêu chuẩn, quy định về PTDLCĐ còn thiếu hoặc chưa được cụ thể hóa theo đặc thù của từng địa phương, dẫn đến lúng túng trong việc hướng dẫn triển khai và xử lý những vi phạm. Ngoài ra còn thiếu cơ chế điều phối đủ mạnh để hoạt động liên kết, phối hợp trong QLNN đối với PTDL, PTDLCĐ giữa những địa phương trong vùng Tây Bắc thực sự hiệu quả.

CĐDC còn nhiều khó khăn: QLNN đối với PTDL, PTDLCĐ gặp khó khăn do CĐDC còn nghèo nên khó thu hút CĐDC tham gia các hoạt động DLCĐ. Nhìn chung đến nay, vùng Tây Bắc vẫn là vùng khó khăn và nghèo nhất của cả nước. Nhiều địa bàn huyện, xã ở vùng Tây Bắc nằm trong danh sách khu vực đặc biệt


khó khăn; trình độ và mức sống của CĐDC đa phần còn thấp, nhiều nơi còn có các hủ tục lạc hậu, không thích hợp cho PTDL. Chính vì vậy, các hoạt động QLNN như tuyên truyền, phổ biến cũng như nâng cao nhận thức và đào tạo kỹ năng về du lịch cho người dân gặp rất nhiều trở ngại.

- Nguyên nhân chủ quan:

Nhận thức về DLCĐ của những đối tượng tham gia PTDLCĐ còn hạn chế; chưa hiểu đầy đủ về vai trò của DLCĐ với phát triển KTXH, về tính đặc thù của DLCĐ và các nguyên tắc PTDLCĐ. Chính vì thế, hoạt động triển khai PTDLCĐ và quản lý chúng chưa thực sự bài bản, khoa học; các điểm tiềm năng được lựa chọn cho phát triển DLCĐ không có đủ các yếu tố cần thiết; nhiều dự án về DLCĐ do Nhà nước hỗ trợ không đạt được kết quả mong muốn, thiếu bền vững hoặc triển khai thất bại, đầu tư từ ngân sách thiếu hiệu quả.

Một số địa phương vẫn chưa quan tâm đúng mức đến PTDLCĐ. Điều này thể hiện ở việc thiếu các định hướng, mục tiêu cụ thể về PTLCĐ trong các quy hoạch PTDL; chậm điều chỉnh các định hướng, mục tiêu PTDLCĐ để thích hợp với bối cảnh, thực tế phát triển KTXH; chưa ban hành hoặc chưa điều chỉnh kịp thời những chính sách hỗ trợ cộng đồng; chưa chủ động hợp tác với những đơn vị, tổ chức có chuyên môn về DLCĐ trong bối cảnh năng lực và việc phối kết hợp giữa các ngành ở địa phương còn hạn chế.

Hoạt động QLNN đối với PTDLCĐ tuy đã có những cố gắng nhất định, song chưa có các biện pháp, cách thức hiệu quả để kiểm soát kịp thời các hoạt động DLCĐ, thiếu quy hoạch/đề án cụ thể về PTDLCĐ ở địa phương. Đây chính là những lý do trực tiếp gây ra phát triển tự phát, không theo đúng quy hoạch ở nhiều điểm DLCĐ.

Quan hệ phối hợp giữa những cơ quan ở các địa phương trong việc xây dựng cũng như quản lý quy hoạch, đề án có liên quan đến DLCĐ chưa chặt chẽ. Việc phân bổ nguồn lực đầu tư, kiểm tra chính sách về PTDLCĐ chưa được thực hiện thường xuyên nên không tận dụng được thế mạnh của mỗi cơ quan, mỗi ngành trong PTDLCĐ.

Việc bồi dưỡng, đào tạo và hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo nhân lực cho QLNN đối với PTDL, PTDLCĐ vẫn còn những bất cập, chưa thực sự thích hợp với thực


tế địa phương, có hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy, nội dung này chưa đáp ứng được hoàn toàn yêu cầu đối với PTDLCĐ.

Bộ máy QLNN về du lịch thay đổi không ít lần gây khó khăn cho hoạt động QLNN; thiếu một hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ và có tính liên tục về nguồn nhân lực du lịch để nhằm hướng đến mục tiêu quản lý, theo dõi và tham mưu. Kiến thức và kinh nghiệm thực tế về phát triển DLCĐ của cán bộ QLNN còn hạn chế, trong khi phải đảm đương quá nhiều nhiệm vụ liên quan đến QLNN về du lịch. Việc sử dụng công nghệ trong những hoạt động quản lý nói chung và trong việc trao đổi với doanh nghiệp, người dân và du khách còn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.


Kết luận chương 3

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu ở chương 3 có thể rút ra một số kết luận sau:

- Những yếu tố tự nhiên, KTXH và văn hóa có ảnh hưởng lớn đến hoạt động QLNN đối với PTDLCĐ. Vùng Tây Bắc nhận được quan tâm rất lớn của Nhà nước, nhưng đến nay, đây vẫn là vùng nghèo khó của Việt Nam, mức sống CĐDC còn thấp, hạ tầng kém phát triển. Chính vì vậy, những cơ quan QLNN ở địa phương mặc dù rất nỗ lực nhưng hoạt động đầu tư PTDL chưa được như kỳ vọng, khó huy động CĐDC nói riêng và những thành phần kinh tế nói chung tham gia vào hoạt động du lịch. Điều này cũng thể hiện rõ qua kết quả PTDL, DLCĐ tại các tỉnh vùng Tây Bắc. Có thể nói, mặc dù có nhiều TNDL, sự PTDLCĐ ở đây vẫn còn nhiều hạn chế và không như kỳ vọng.

- Kết quả nghiên cứu cho thấy bước đầu QLNN của cấp tỉnh đã đạt được các thành công nhất định, thể hiện qua việc chủ động cụ thể hóa và hướng dẫn triển khai các Nghị quyết, Luật; ban hành và triển khai những chính sách hỗ trợ để phát triển DLCĐ, lồng ghép những định hướng phát triển DLCĐ trong các quy hoạch, kế hoạch PTDL. Tuy nhiên, QLNN đối với phát triển DLCĐ các tỉnh vùng Tây Bắc còn cho thấy nhiều bất cập, thiếu các mục tiêu, định hướng cụ thể cho phát triển DLCĐ; các chính sách hỗ trợ PTDLCĐ đã ban hành chưa thể đi sâu vào cuộc sống…


- Từ phân tích các dữ liệu thứ cấp và kết quả đánh giá theo 4 tiêu chí về hoạt động QLNN đối với PTDLCĐ qua khảo sát bằng bảng hỏi đã chỉ ra các yếu tố có đóng góp lớn vào thành công của QLNN đối với PTDLCĐ, đem lại sự hài lòng cho khách du lịch, doanh nghiệp và CĐDC; đồng thời, cũng xác định một số yếu tố phản ánh sự không hài lòng của các đối tượng quản lý với chính quyền địa phương.

- Sự biến động của bộ máy tổ chức; số lượng, năng lực của cán bộ QLNN về du lịch cũng như mức độ phối hợp của các đơn vị ở một số tỉnh vùng Tây Bắc cũng là những yếu tố tác động tới kết quả QLNN đối với PTDLCĐ. Chính vì vậy, việc hoàn thiện bộ máy quản lý, năng lực của cán bộ QLNN là những nội dung cần được quan tâm để nâng cao hiệu quả của QLNN, hiệu quả của PTDLCĐ ở một số tỉnh vùng Tây Bắc hiện nay.


CHƯƠNG 4

MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG

Ở MỘT SỐ TỈNH VÙNG TÂY BẮC, VIỆT NAM


4.1. Bối cảnh, quan điểm và định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với phát triển du lịch cộng đồng ở một số tỉnh vùng Tây Bắc, Việt Nam

4.1.1 Bối cảnh phát triển

4.1.1.1. Xu hướng phát triển du lịch cộng đồng trên thế giới và ở Việt Nam

Du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, góp phần giảm nghèo, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Theo dự báo từ UNWTO, giai đoạn đến năm 2030, du lịch thế giới tiếp tục phát triển và có đóng góp lớn cho phát triển KTXH thế giới [155]. Cũng theo UNWTO: ”Hoạt động du lịch thế giới sẽ đạt mức tăng trưởng trung bình 3-4%/năm trong giai đoạn tới đạt 1,8 tỷ lượt vào năm 2030. Khu vực Đông Nam Á sẽ là nơi có lượng khách quốc tế lớn thứ tư của thế giới” [154]. Song song với sự tăng nhanh của lượng khách du lịch, xu hướng đi du lịch cũng sẽ có sự thay đổi đáng kể. Du khách ngày càng ưa chuộng các loại hình du lịch thân thiện với môi trường như: DLCĐ, du lịch sinh thái, du lịch phục vụ nhu cầu sức khỏe, làm đẹp, du lịch nghỉ dưỡng... Họ ngày càng quan tâm tới nhu cầu trải nghiệm hướng đến các yếu tố mới được tạo ra dựa trên sự đặc sắc và tính nguyên bản của văn hóa truyền thống; tính hiện đại và tiện nghi dựa trên cơ sở ứng dụng KHCN; tính nguyên sơ và độc đáo của giá trị tự nhiên. Phát triển các loại hình du lịch có trách nhiệm, DLST và DLCĐ là xu hướng nhưng cũng là yêu cầu để hướng tới phát triển du lịch bền vững. Theo UNWTO, số lượt khách đi tham quan, tìm hiểu và trải nghiệm văn hóa, nghỉ dưỡng chiếm 54%; du lịch sức khỏe, du lịch tôn giáo sẽ chiếm khoảng 31% và mục đích công việc là 15% vào năm 2030 [54].

Hiện nay, khách du lịch ngày càng quan tâm đến chất lượng trải nghiệm tại điểm đến, tỷ lệ khách du lịch quan tâm và đi trải nghiệm văn hóa địa phương, đi nghỉ dưỡng núi đã tăng lên nhiều so với trước đây [155]. Chính vì thế, PTDLCĐ ở các vùng có nhiều tiềm năng như vùng Tây Bắc vẫn là một trong các hướng ưu


tiên trong nội dung của Chiến lược phát triển du lịch Việt nam đến năm 2030. “Phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với di sản, lễ hội, tham quan và tìm hiểu văn hóa, lối sống địa phương; phát triển du lịch làng nghề và du lịch cộng đồng kết hợp nghỉ tại nhà dân” là một trong 04 dòng SPDL ưu tiên của Việt Nam được nêu ở Đề án “Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” của Bộ VHTTDL. Bên cạnh đó, nhiều nội dung về PTDLCĐ đã được luật hóa, là cơ hội cho DLCĐ phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi các địa phương phải tăng cường vai trò định hướng cũng như hỗ trợ CĐDC, nhất là CĐDC ở vùng sâu, vùng xa tham gia nhiều hơn vào DLCĐ. Rõ ràng, đây là những chính sách rất cụ thể, tích cực và là cơ sở để thúc đẩy PTDLCĐ đúng nghĩa ở Việt Nam.

4.1.1.2. Xu hướng đổi mới, sắp xếp tinh gọn bộ máy hành chính Nhà nước

Trong bối cảnh hội nhập, nhất là trước những tác động mạnh mẽ từ cuộc CMCN 4.0, “bộ máy hành chính nhà nước phải không ngừng được kiện toàn để đáp ứng yêu cầu xây dựng chính phủ kiến tạo, năng động, hiệu quả” [1, 16, 23, 31, 62, 65]. Hiện nay, QLNN ở Việt Nam đang được đổi mới theo hướng bộ máy nhà nước được thu gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Đây là nhiệm vụ quan trọng, được triển khai theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội. Bởi vậy, những năm tới, bộ máy QLNN nói chung và QLNN về du lịch các cấp nhìn chung sẽ được tổ chức theo hướng gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả hơn, đồng thời chuyển dần từ “chức năng quản lý hành chính sang phục vụ, kiến tạo và cung cấp những dịch vụ công cho xã hội” [1, 16, 23, 31, 62, 65].

4.1.1.3. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát triển du lịch

Sự phát triển nhanh của KHCN, đặc biệt là các thành tựu của CMCN 4.0 sẽ tiếp tục có những tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của du lịch thế giới nói chung và du lịch Việt Nam nói riêng. Khách du lịch sẽ sử dụng nhiều giao dịch trên môi trường mạng; các doanh nghiệp du lịch (kể cả các doanh nghiệp lớn và các hộ gia đình) cũng sẽ áp dụng nhiều hình thức kinh doanh nói chung và tiếp cận với khách du lịch trên môi trường kỹ thuật số [155, 163]. Dưới tác động của CMCN 4.0, du lịch sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhiều cơ hội và thách thức cũng sẽ được mở


ra. Điều này đòi hỏi đổi mới cách thức quản lý, mô hình và phương thức quản lý đối với cả doanh nghiệp và cơ quan QLNN để thích ứng với sự phát triển KHCN và của bản thân ngành Du lịch. Vì thế, QLNN về du lịch cần tính đến tác động của CMCN 4.0 đến du lịch trong hoạt động xây dựng và triển khai các chính sách, hướng tới hoàn thiện hệ thống thể chế; tăng cường ứng dụng những thành tựu công nghệ mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước; đồng thời, buộc các cán bộ QLNN phải nâng cao năng lực để có thể đảm đương tốt các công việc. Nhà nước cũng cần nâng cao chất lượng dự báo trong tất cả các ngành, lĩnh vực của KTXH (trong đó có du lịch), kết hợp giữa dự báo về những tiến bộ của KHCN với những quyết định đầu tư cho PTDL [54].

Hiện nay, Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020, định hướng đến năm 2025 đã được phê duyệt với mục tiêu là “ứng dụng công nghệ thông tin nhằm phát triển hệ sinh thái du lịch thông minh, chủ động đáp ứng nhu cầu đặc thù, chuyên biệt của thị trường khách du lịch, hỗ trợ doanh nghiệp du lịch kết nối hiệu quả với các chủ thể liên quan, tạo môi trường cho cộng đồng, các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phù hợp với xu hướng của CMCN 4.0, đáp ứng yêu cầu về đổi mới phương thức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của của du lịch Việt Nam”.

4.1.2. Những định hướng và mục tiêu chính về phát triển du lịch, du lịch cộng

đồng ở một số tỉnh vùng Tây Bắc, Việt Nam

4.1.2.1. Những định hướng, mục tiêu chính về phát triển du lịch ở một số tỉnh vùng Tây Bắc, Việt Nam

Sở hữu TNDL phong phú, vùng Tây Bắc có thể phát triển nhiều loại hình du lịch như DLCĐ, DLST, du lịch văn hóa, du lịch tham quan, nghiên cứu... Đây thực sự là thế mạnh nổi trội của vùng Tây Bắc nói riêng và vùng TDMNBB nói chung so với các vùng du lịch khác của cả nước [54].

Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: “Sơn La-Điện Biên gắn với Mộc Châu, hồ Sơn La, cửa khẩu quốc tế Tây Trang, di tích lịch sử Điện Biên Phủ và Mường Phăng là địa bàn trọng điểm phát triển du lịch của vùng du lịch trung du miền núi Bắc Bộ”. Quy

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 23/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí