Thực Trạng Quản Lý Nhà Nước Đối Với Nợ Xấu Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam


bảo an toàn trong hoạt động cấp tín dụng và các dịch vụ khác n m trong danh mục hoạt động của các NHTM tại quốc gia này.

Trên cơ sở khung pháp lý được cải thiện, các chiến lược và các chương trình hành động đã được đưa ra. Cục Dự trữ Liên bang (FED) đưa ra hàng loạt các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện để biến chiến lược và chương trình hành động thành các hoạt động thực tiễn để quản lý nợ xấu của các NHTM. Trên cơ sở đó, các NHTM tự chủ đưa ra chương trình và kế hoạch hành động nh m phát huy tối đa hiệu quả hoạt động tín dụng theo từng giai đoạn phát triển cụ thể.

Ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM

Việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của các NHTM tại Hoa Kỳ tập trung vào một số hoạt động chính như phân loại nợ, đo lường nợ xấu, chấm điểm tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Trong đó, việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện trên cơ sở chấm điểm và xếp hạng tín dụng. FED yêu cầu các NHTM thực hiện phân loại nợ, từ đó trích lập đủ dự phòng và sử dụng khoản dự phòng này vào việc xử lý rủi ro tín dụng. Đồng thời, theo quy định của FED, các NHTM Hoa Kỳ cần chủ động áp dụng các chuẩn mực xử lý nợ xấu b ng các giải pháp cổ điển như khoanh nợ, giãn nợ, cơ cấu nợ ... kết hợp với các giải pháp mới như sáp nhập, chứng khoán hóa tài sản nợ ... (Ghosh, 2017).

Thêm vào đó, các ngân hàng phải duy trì mức vốn tự có b t buộc để đảm bảo tính chủ động trong quá trình kiểm soát và xử lý nợ xấu. Nhìn chung, việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM tại Hoa kỳ được chú trọng triển khai, từ đó tạo được sự nghiêm kh c và tính hiệu quả của việc thực thi các chuẩn mực nợ xấu, tác động tích cực đến hệ thống tài chính quốc gia.

Tổ chức kiểm tra, giám sát nợ xấu của các NHTM

Để đảm bảo hiệu quả kiểm tra và giám sát nợ xấu của các NHTM, hệ thống giám sát ngân hàng của Hoa Kỳ chú trọng đảm bảo sự phân định rõ ràng về m t chức năng, nhiệm vụ, mục đích của từng đơn vị thực hiện. Đồng thời, hệ thống này có tính độc lập tương đối cao trong hoạt động kiểm tra và giám sát nợ xấu của các NHTM nh m đảm bảo tính công b ng và minh bạch.


Trong những năm gần đây, các công cụ để FED thực hiện quản lý, giám sát ch t ch hoạt động cấp tín dụng và xử lý nợ xấu của các NHTM tại Hoa Kỳ bao gồm một số công cụ phổ biến như: kế hoạch và chiến lược phát triển và tín dụng; luật và các văn bản quy phạm pháp luật; hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM. Việc sử dụng các công cụ này giúp đảm bảo tính hiệu quả và nghiêm minh của hoạt động quản lý và giám sát tín dụng c ng như nợ xấu của các NHTM Hoa Kỳ (Trịnh Thị Thủy, 2015; Ghosh, 2017).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 231 trang tài liệu này.

Đ c biệt, hệ thống thanh tra và giám sát ngân hàng của Hoa Kỳ thực hiện trên cơ sở khung pháp lý phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính nói chung. Để đảm bảo hiệu quả trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động cấp và quản lý tín dụng của các NHTM, các cơ quan giám sát Hoa Kỳ luôn quan tâm và đảm bảo đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong hệ thống này.

Xử lý các NHTM khi có nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng

Quản lý nhà nước đối với nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 1669272396 - 9

Hoa Kỳ ban hành chính sách chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của các NHTM. Chính sách này được ưu tiên và được xem là trọng tâm trong chuỗi giải pháp xử lý các NHTM khi có nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng của quốc gia này. Để bảo lãnh chứng khoán hóa nợ xấu, Bộ Tài chính, Cục Dự trữ liên bang (FED) và Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC) của Hoa Kỳ đã cho ra đời ngân quỹ, tồn tại dưới dạng các gói tiền 200 tỷ USD, 500 tỷ USD, thậm chí là 700 tỷ USD.

Ngoài ra, quốc gia này tiến hành mua lại nợ xấu cho các NHTM. Bên cạnh đó, các công ty nợ xấu còn hỗ trợ các NHTM yếu kém giải quyết các vấn đề thanh khoản tạm thời. Chẳng hạn như, sau khi tập đoàn cho vay thế chấp lớn nhất Mỹ - Countrywide Financial bị mất tiền do khách hàng thua lỗ không hoàn vốn, Bank of America đã mua lại tập đoàn này (Trịnh Thị Thủy, 2015; Ghosh, 2017).

Nhìn chung, tại Hoa Kỳ, việc xử lý các NHTM khi có nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng có sự can thiệp của chính phủ và sự kết hợp với doanh nghiệp tư nhân. Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ vốn cho các ngân hàng lớn để khuyến


khích mua lại các NHTM yếu kém và các TCTD s p phá sản. Điều này giúp chia nhỏ rủi ro và áp lực lên vai NHTW. Như vậy, việc kết hợp các giải pháp xử lý nợ xấu của các ngân hàng tại Hoa Kỳ cho thấy vai trò chủ đạo của Chính phủ, với hành lang pháp lý hoàn thiện, khả năng dự báo và phản ứng kịp thời đã có tác động rất lớn, tạo ra hiệu quả cao trong quản lý và xử lý nợ xấu tại các NHTM.

2.5.2. Bài học cho Việt Nam

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với nợ xấu của hệ thống NHTM một số quốc gia trên thế giới, x t trong điều kiện thực tế tại Việt Nam, tác giả rút ra được một số bài học cụ thể như sau:

Thứ nhất, Nhà nước và các cơ quan hữu quan cần tăng cường khung pháp lý nhằm giám sát chặt chẽ ngành Ngân hàng, từ đó quản lý tốt và hạn chế sự xuất hiện của nợ xấu. Để làm được điều này, Việt Nam cần chủ động thiết lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ trên cơ sở các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn tín dụng ngân hàng. Từ đó, Việt Nam có thể tạo lập được môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các NHTM đạt hiệu quả, an toàn và phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, các chính sách liên quan đến nợ xấu của các NHTM cần được hoàn thiện theo hướng minh bạch, phù hợp, từ đó mới có thể bảo đảm an toàn hệ thống. Đ c biệt, các chính sách liên quan cần được ban hành kịp thời, nh m kh c phục các hạn chế chính sách trước đó và tối thiểu hóa các khoản npwj xấu có nguy cơ phát sinh do những bất cập về chính sách. Nhật Bản là quốc gia đã thực hiện rất tốt hoạt động này, nhờ vậy mà tình hình nợ xấu của quốc gia này đã được cải thiện rất nhiều. Trong bối cảnh hiện nay, một vấn đề rất quan trọng là Việt Nam cần xác định rõ ràng lộ trình mở cửa thị trường để đảm bảo tính hiệu quả của các chính sách c ng như tạo điều kiện cho các NHTM trong nước hoạt động theo nguyên t c thương mại - thị trường. Bên cạnh đó, các chính sách và văn bản pháp luật cần tăng cường các quy định của NHNN Việt Nam về xử lý nợ xấu.

Thứ hai, Việt Nam cần chú trọng đến việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của các NHTM. Việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM cần hướng đến mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh,


xây dựng hệ thống ngân hàng lành mạnh, bền vững, từ đó có thể huy động được cả các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát triển.

Việc ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của các NHTM cần đáp ứng các yêu cầu quản lý nợ xấu nh m tối ưu hoá hiệu suất NHTM, đồng thời thúc đẩy cạnh tranh thị trường tài chính công b ng và nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Đ c biệt, việc ban hành các chuẩn mực này cần phải tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia để có thể tiếp tục mở cửa khu vực ngân hàng nội địa. Việc ban hành các chuẩn mực này s góp phần triển khai các hoạt động cho vay một cách thận trọng để có thể duy trì tính ổn định của hệ thống NHTM Việt Nam.

Thứ ba, Việt Nam cần chú trọng hơn nữa đến việc đảm bảo tính độc lập và tự quyết của NHNN trong vấn đề quản lý nợ xấu của hệ thống NHTM. Nếu NHNN Việt Nam chịu sự chi phối của Chính phủ, đồng thời không có thẩm quyền độc lập trong việc quyết định về tín dụng và quản lý nợ xấu s dẫn đến việc quản lý hoạt động này khó đạt được hiệu quả như mong đợi, gây ảnh hưởng đến thị trường tài chính trong nước. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả quản lý nợ xấu, Chính phủ cần tiến tới từng bước tách ảnh hưởng của mình ra khỏi NHNN.

Trong điều kiện QLNN đối với nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam hiện nay, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là một tất yếu và có ý nghĩa vô c ng quan trọng. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam nên giao nhiệm vụ rõ ràng cho NHNN trong việc ban hành quy chế về hoạt động của AMC c ng như hoạt động chứng khoán hóa. Đồng thời, cần phải xác định rõ trách nhiệm của NHNN trong việc giám sát nợ xấu, tránh tối đa khả năng NHNN sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa để làm gia tăng rủi ro hệ thống.

Thứ tư, Chính phủ và NHNN cần đánh giá chính ác tình hình nợ xấu của các NHTM Việt Nam để có thể nhanh chóng đưa ra các biện pháp kịp thời để giảm thiểu thiệt hại. Đ c biệt, Việt Nam cần chú trọng đến việc phân loại nợ tại các NHTM để triển khai quản lý một cách phù hợp với tình hình tín dụng và nợ xấu của các ngân hàng trong nước. Bên cạnh đó, Chính phủ và NHNN cần linh hoạt trong


việc xử lý tình trạng thiếu vốn của các NHTM thông qua một số biện pháp như sử dụng vốn nhà nước để tránh làm sụp đổ hệ thống ho c tăng vốn trong quá trình xử lý nợ xấu b ng cả nguồn vốn công và tư.

Thứ năm, Việt Nam cần xây dựng và phát triển hệ thống NHTM có cấu trúc đa dạng về sở hữu, có quy mô hoạt động đủ lớn và minh bạch, đồng thời đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Ch như vậy hệ thống ngân hàng Việt Nam mới có khả năng quản lý và xử lý hiệu quả nợ xấu. Bên cạnh đó, Việt Nam cần nghiêm túc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng và nợ xấu. Các NHTMNN và NHTMCP do nhà nước chi phối phải đóng vai tr chủ lực trong phát triển hệ thống.

Thứ sáu, Việt Nam cần tăng cường quy chế quản lý, giám sát các hoạt động kinh doanh tín dụng và xử lý nợ xấu của từng NHTM, đồng thời củng cố sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN trong việc giám sát hoạt động của hệ thống tài chính. Đ c biệt, Nhà nước và NHNN cần đẩy mạnh đổi mới và nâng cao hiệu quả của các phương pháp giám sát tín dụng và nợ xấu của các NHTM thông qua một số hoạt động cụ thể như cải thiện chất lượng giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ.

Hoạt động giám sát minh bạch cần được chú trọng nh m đảm bảo các NHTM thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về tín dụng và nợ xấu. NHNN cần áp dụng các nguyên t c cơ bản về giám sát ngân hàng của Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel c ng như các chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng Basel I để từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nợ xấu.

Thứ bảy, Việt Nam cần mở rộng kênh xử lý nợ xấu tương tự như Hoa Kỳ. Đây là một bài học cần được nghiên cứu kỹ, đ c biệt trong bối cảnh hiện nay khi ngân sách của NHNN khi đầu tư cho công ty mua nợ xấu còn thiếu hụt. Bên cạnh đó, theo kinh nghiệm của các quốc gia nêu trên, việc thành lập cơ quan xử lý nợ xấu chuyên biệt trực thuộc Chính phủ (có thể ủy quyền cho NHNN quản lý) là biện pháp cần thiết. Tuy nhiên, cơ quan này s chịu trách nhiệm xử lý một phần nợ xấu của các NHTM. Việc xử lý có thể thực hiện thông qua một số phương thức như chứng khoán hóa các khoản nợ xấu, mua lại nợ xấu ...


Thứ tám, Việt Nam cần học hỏi các quốc gia trên trong việc xử lý nghiệm các NHTM khi có nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng. Các biện pháp xử lý quyết liệt của Chính phủ đối với các ngân hàng có nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng s giúp tình hình nợ xấu của các NHTM Việt Nam bớt căng thẳng đi rất nhiều. Để làm được điều này, Chính phủ Việt Nam có thể xem xét bài học của Nhật Bản trong việc cho thực hiện việc phá sản đối với các ngân hàng thực sự yếu kém và không quản lý tốt nợ xấu.

Ngoài ra, Việt Nam có thể chú trọng đến các biện pháp đảm bảo thanh toán tiền gửi tiết kiệm và hỗ trợ thanh khoản tại những ngân hàng có nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng. Hoạt động hợp nhất và sáp nhập ngân hàng c ng nên được cân nh c để đảm bảo hiệu quả quản lý nợ xấu tại các ngân hàng lớn. Các biện pháp mua lại nợ xấu cho các NHTM c ng góp phần quan trọng vào việc kích thích đầu tư c ng như mở ra cơ hội cho nền kinh tế tái hoạt động.


Kết luận chương 2


Chương này tập trung đưa ra khung cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN của NHTW đối với nợ xấu của hệ thống NHTM. Mở đầu, tác giả hệ thống lý luận về nợ xấu của NHTM, cụ thể các khái niệm, nguyên nhân và phân loại nợ xấu c ng như các ch tiêu phản ảnh nợ xấu của NHTM.

Tiếp đến, tác giả nghiên cứu lý luận về QLNN đối với nợ xấu của hệ thống NHTM. Có 04 nội dung QLNN đối với nợ xấu của các NHTM, cụ thể: (1) Xác lập môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của NHTM, (2) Ban hành chuẩn mực nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM, (3) Tổ chức kiểm tra, giám sát nợ xấu của các NHTM, và (4) Xử lý các NHTM khi có với nợ xấu vượt ngưỡng trong hoạt động tín dụng. Tác giả c ng nghiên cứu các tiêu chí đánh giá hiệu quả QLNN đối với nợ xấu của các NHTM. Trên cơ sở nghiên cứu đã triển khai, tác giả đã đề xuất mô hình, giả thuyết nghiên cứu, c ng như phát triển các thang đo nghiên cứu.

Trong nội dung tiếp theo của chương, tác giả nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN đối với nợ xấu của NHTM. Có 03 nhóm yếu tố được tác giả chú trọng, bao gồm: (1) Các yếu tố thuộc về NHTW, (2) Các yếu tố thuộc về NHTM, và (3) Các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế.

Nội dung cuối cùng của chương là kinh nghiệm QLNN đối với nợ xấu của hệ thống NHTM một số quốc gia và bài học cho Việt Nam. Tác giả nghiên cứu kinh nghiệm QLNN đối với nợ xấu của 04 quốc gia điển hình, đó là: Liên minh châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tiễn, tác giả rút ra một số bài học cho Việt Nam trong việc QLNN đối với nợ xấu của hệ thống NHTM hiện nay.


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỢ XẤU CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

3.1.1. Khái quát về ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định NHNN Việt Nam có hai chức năng chính, đó là (i) QLNN về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối;

(ii) phát hành tiền, ngân hàng của các TCTD và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. NHNN Việt Nam chú trọng ổn định giá trị đồng tiền; từ đó bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD. Bên cạnh đó, NHNN góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua việc bảo đảm sự an toàn và hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia.

Theo Nghị định số 16/2017/NĐ-CP, NHNN Việt Nam có 26 đơn vị trực thuộc, trong đó 20 đơn vị có trách nhiệm hỗ trợ Thống đốc NHNN thực hiện chức năng QLNN và chức năng NHTW, 6 đơn vị là tổ chức sự nghiệp. Trong đó, các Cục, Vụ NHNN Trung ương gồm: Vụ Chính sách tiền tệ; Vụ Quản lý ngoại hối; Vụ Thanh toán; Vụ Tín dụng các ngành kinh tế; Vụ Dự báo thống kê; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Ổn định tiền tệ; Vụ Kiểm toán nội bộ; Vụ Pháp chế; Vụ Tài chính - Kế toán; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Thi đua - Khen thưởng; Vụ Truyền thông; Văn ph ng; Cục Công nghệ thông tin; Cục Phát hành và Kho quỹ; Cục Quản trị; Sở Giao dịch; Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; và NHNN Chi nhánh t nh, thành phố trực thuộc Trung ương.

06 đơn vị sự nghiệp của NHNN Việt Nam gồm Viện Chiến lược ngân hàng; Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam; Thời báo Ngân hàng; Tạp chí Ngân hàng; Trường bồi dưỡng cán bộ ngân hàng; và Học viện Ngân hàng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/11/2022