Các Chức Năng Quản Lý Nhà Nước Về Kinh Tế Theo Giai Đoạn Tác Động

Nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên chế về con người. Mặt khác chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của từng giai đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế cũng không cố định mà luôn biến động và phát triển. Tuy nhiên các chức năng cơ bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay đổi thường xuyên là các nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong không gian và thời gian nhất định.

Các chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế nước ta được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:

1.2.2.1. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ mô sau đây:

- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh

- Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển

- Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội

- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia…”

1.2.2.2. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động

a. Định hướng phát triển kinh tế đất nước:

Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian thường là 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và các chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện.

Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ - 3

- Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng thời gian nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước.

- Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước. Đây là nội dung quan trọng của chức năng định hướng, vì mục tiêu là khởi đầu của quản lý, nó chi phối toàn bộ hoạt động quản lý. Xác định mục tiêu đúng còn là cơ sở để xác lập các nguyên tắc và bộ máy quản lý.

- Xác định chiến lược phát triển kinh tế:

+ Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà nhà nước sẽ thực thi trong một thời gian đủ dài

+ Các mục tiêu dài hạn cơ bản của đất nước

+ Các giải pháp chủ yếu để thu hút và phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng trong và ngoài nước, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.

b. Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu vực nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10 đến 20 năm hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục tiêu và giải pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm, kết hợp với hệ thống ngân sách của Chính phủ và có tính đến viện trợ từ bên ngoài đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện.

Chương trình là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các quy tắc, các nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết khác, để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế đất nước, vùng và ngành.

Chương trình và kế hoạch có quan hệ với nhau và có điểm khác nhau. Chương trình là một bộ phận của kế hoạch, hay một phương thức vận hành của kế hoạch để đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Chương trình đảm bảo phối hợp một cách đồng bộ các biện pháp liên quan trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra. Chương trình tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có

hiệu quả những trọng tâm của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ, để tạo cơ cấu kinh tế mới.

c. Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế

Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu quan khác.

Luật kinh tế là hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng thời xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập cơ sở pháp lý cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình với các hoạt động đó.

d. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩykinh tế

Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định, được nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới các mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế xã hội như:

- Chính sách tài chính;

- Chính sách tiền tệ - tín dụng;

- Chính sách kinh tế đối ngoại…

đ. Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động

Với chức năng tổ chức sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh doanh, cũng như các trung tâm khoa học, đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ cho phát triển kinh tế.

Với chức năng điều hành, nhà nước phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá trình thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước..

e. Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế

Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đồng thời phát hiện những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của đất nước, giữ đúng định hướng kế hoạch nhà nước đã đề ra.

g. Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế:

Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là những tác động bổ sung của nhà nước đến nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai sót, tận dụng thời cơ để phát triển kinh tế.

Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ và chính sách quản lý kinh tế, như luật pháp, kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế…


1.2.3. Các công cụ quản lý Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp:

Thực chất của quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu kinh tế và căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu không có công cụ quản lý tương ứng thì cũng không thể thực hiện được, vẫn chỉ là mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải mục tiêu quản lý trong hiện thực

Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Chính nhờ đó công cụ quản lý kinh tế với tư cách là vật truyền dẫn tác động của quản lý Nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài.

Công cụ quản lý Nhà nước chủ yếu là bằng pháp luật. Bên cạnh đó, một công cụ không kém phần quan trọng đó là sử dụng các chính sách, các đòn bẩy kinh tế tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.

1.2.3.1. Pháp luật

Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật.

Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục để đảm bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương hướng nhất định. Thông qua việc thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, được thể hiện ở các mặt cơ bản sau đây:

a) Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững

Điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế là điều kiện cần thiết và bắt buộc để duy trì sự ổn định thường xuyên, lâu dài của nền kinh tế quốc dân, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trường kinh tế liên tục với tốc độ và hiệu quả cao. Muốn vậy, phải có các hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng quy phạm pháp luật chuẩn xác trong quản lý nhà nước về kinh tế. Nhờ chúng mà tạo được tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế, làm cho mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi vùng, mọi địa phương, mọi thành phần kinh tế và mọi công dân yên tâm huy động các nguồn lực của mình vào sản xuất, kinh doanh với năng suất, chất lượng và hiệu quả.

b) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân

Bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: bình đẳng về quyền lợi và bình đẳng về nghĩa vụ; hai mặt đó phải thường xuyên tương ứng vơi nhau, ăn khớp với nhau, không được tách rời nhau và càng không được đối lập nhau. Cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan, là một giải

pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí sản xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân vì mục tiêu hiệu quả cao. Để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, một vấn đề rất quan trọng và Chính phủ nhiều nước quan tâm giải quyết là ban hành và thực thi luật chống độc quyền. Trong đó, tạo lập cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế, nhất là giữa các thành phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân.

c) Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường

Tăng trưởng kinh tế bền vững là một mục tiêu chung, có tính chất toàn cầu mà mọi quốc gia đều mong muốn và phấn đấu thực hiện. Hiệu quả tăng trưởng kinh tế theo quan niệm hiện đại được đánh giá thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Tăng trưởng kinh tế bền vững về thực chất là tăng trưởng liên tục, ổn định GDP với tốc độ cao, tạo mở ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động, hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm các loại tài nguyên, bảo vệ sự trong lành của môi trường sinh thái.

Để nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường, Nhà nước cần đề ra và thực thi các quy phạm pháp luật có liên quan với việc kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Thí dụ: Luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật bảo vệ môi trường.

1.2.3.2. Kế hoạch

Kế hoạch theo nghĩa hẹp là phương án hành động trong tương lai; theo nghĩa rộng là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch với tính cách là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bản thân là một hệ thống bao gồm nhiều nội dung hoạt động.

- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: là đường lối chung tổng quát và giải pháp chủ yếu, tổng thể để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời gian dài

(ở nước ta thường là 10 năm). Thí dụ: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000 do Đại hội VII của Đảng đề ra; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 do Đại hội IX của Đảng đề ra.

- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: là sự cụ thể hóa một bước chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nó là một tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu theo không gian và thời gian. Nước ta đề ra quy hoạch đô thị vào năm 1997, sau đó nhiều ngành cũng đề ra quy hoạch phát triển để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ví dụ ngành Hàng hải Việt Nam dự định đưa ra quy hoạch phát triển đội tàu biển và quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam.

- Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để cụ thể hóa các mục tiêu và các giải pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Kế hoạch trung hạn mà thường là kế hoạch 5 năm, trong đó có phân bổ chỉ tiêu cho từng năm, là hình thái chủ yếu của kế hoạch, là định hướng khung cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

- Kế hoạch hàng năm: là sự cụ thể hóa của kế hoạch trung hạn nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của kế hoạch trung hạn. Kế hoạch hàng năm được xây dựng căn cứ vào mục tiêu và định hướng chiến lược, vào phương pháp, nhiệm vụ của kế hoạch trung hạn và vào kết quả phân tích tình huống.

- Chương trình: được sử dụng rất phổ biến, để xác định một cách đồng bộ các mục tiêu cần đạt, các bước công việc phải tiến hành, các nguồn lực cần huy động để thực hiện một ý đồ nào đó. Ví dụ: Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi giai đoạn 2006 – 2010.

- Dự án: Tổng thể các hoạt động, các nguồn lực và các chi phí được bố trí chặt chẽ theo thời gian và không gian nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể, ví dụ: dự án xóa đói giảm nghèo của đồng bào các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu vùng xa.

- Ngân sách: là bảng tường trình bằng con số, sự huy động phân bổ các nguồn lực cho việc thực hiện các chương trình, dự án trong một giai đoạn nhất định.

1.2.3.3. Chính sách

Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu của Nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế quốc dân. Dưới dạng chung nhất, mỗi chính sách cụ thể là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một chính sách bất kỳ thường gồm hai bộ phận: các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để thực hiện mục tiêu.

Chính sách là một hệ thống phức tạp nhiều loại, theo lĩnh vực hoạt động, có thể đem các chính sách phân thành hia nhóm:

- Các chính sách kinh tế chủ yếu là:

+ Chính sách cơ cấu kinh tế;

+ Chính sách tài chính;

+ Chính sách tiền tệ;

+ Chính sách giá cả;

+ Chính sách kinh tế đối ngoại;

- Các chính sách xã hội (hoặc các chính sách phi kinh tế) chủ yếu là:

+ Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;

+ Chính sách lao động và việc làm;

+ Chính sách giáo dục;

+ Chính sách văn hóa;

+ Chính sách khoa học và công nghệ;

+ Chính sách bảo hiểm;

+ Chính sách bảo vệ sức khỏe toàn dân;

+ Chính sách an ninh – quốc phòng;

+ Chính sách xóa đói – giảm nghèo;

+ Chính sách bảo vệ môi trường…

Các chính sách là công cụ đặc thù và không thể thiếu được mà Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế vĩ mô. Chúng có chức năng chung là tạo ra những kích

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí