Thuận Lợi Và Khó Khăn Trong Công Tác Quản Lý Nhà Nước Đối Với Doanh Nghiệp Trên Địa Bàn Hà Nội

không hoạt động hoặc có dấu hiệu lừa đảo. Tuy nhiên, sự phối hợp này giữa các ngành cũng chưa được kịp thời nên ảnh hưởng đến công tác quản lý doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh.

2.3.5. Đánh giá chung

2.3.5.1. Thành tựu

Công tác đăng ký doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội bước đầu đã đạt được những kết quả đáng kể, cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố ngày càng phát triển cả số lượng và chất lượng.

Phần lớn các doanh nghiệp sau khi đăng ký thành lập đã thực hiện đầy đủ các quy định và đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh phát huy hiệu quả, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế xã hội và nguồn thu ngân sách của địa phương.

Thông tin về doanh nghiệp sau khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký thành lập đã được Cơ quan ĐKKD gửi đến cơ quan Công an, Thuế, Thống kê, Sở quản lý chuyên ngành, UBND các cấp. Các doanh nghiệp có vi phạm, nhất là doanh nghiệp bị xử lý thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và đăng tải trên Website của Sở Kế hoạch và Đầu tư,... Trên các cơ sở, đó mỗi cơ quan hình thành cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp thuộc Sở, ngành, địa phương mình quản lý. Các Sở, ngành đã tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ của ngành.

Các doanh nghiệp đã phần nào nâng cao ý thức tự kiểm tra, giám sát trong nội bộ doanh nghiệp. Cộng đồng xã hội đã tham gia giám sát hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đúng pháp luật hơn.

2.3.5.2. Tồn tại, hạn chế

Về phía cơ quan quản lý nhà nước:

- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 không kịp thời, đã làm cho các quy định của Luật chậm đi vào cuộc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

sống, cán bộ làm công tác đăng ký doanh nghiệp rất lúng túng trong việc hướng dẫn thủ tục, hồ sơ cho các tổ chức, cá nhân đến đăng ký doanh nghiệp.

- Công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, mới tập trung vào việc cấp các loại Giấy phép (Chứng chỉ hành nghề, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh,...), xử lý các doanh nghiệp có hành vi vi pháp pháp luật chuyên ngành .v.v. Nhiệm vụ hết sức quan trọng là hỗ trợ doanh nghiệp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc doanh nghiệp chấp hành các điều kiện kinh doanh... chưa được thực hiện một cách thường xuyên, thường mới chỉ tập trung kiểm tra, giám sát vào các đợt, như: tháng an toàn giao thông, tháng an toàn lao động - vệ sinh môi trường, tháng an toàn vệ sinh thực phẩm;...

Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội - 10

- Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp là một vấn đề mới đối với các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền các cấp, do vậy khó tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn khi triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Sự hỗ trợ phát triển doanh nghiệp còn mang nặng tính hành chính, chưa được xã hội hoá một cách mạnh mẽ. Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng chưa kịp thời và đồng bộ.

- Công tác kiểm tra hoạt động doanh nghiệp sau đăng ký thành lập chưa được triển khai thường xuyên. Công tác phối hợp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, thanh tra hoạt động doanh nghiệp có lúc chưa đồng bộ, thiếu thông tin đầy đủ, chính xác, toàn diện về doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.

- Nguồn nhân lực đối với công tác đăng ký kinh doanh, thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp còn hạn chế.

Về phía doanh nghiệp:

- Bên cạnh một số doanh nghiệp có mô hình quản lý năng động và chuyên nghiệp, có khả năng tự hoạch định chiến lược, định hướng kinh doanh

thì nhiều doanh nghiệp có công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp còn yếu, không chuyên nghiệp và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân của chủ doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong doanh nghiệp phần lớn chưa qua đào tạo nên công tác quản trị doanh nghiệp còn lúng túng, do đó có nhiều hạn chế, bỏ lỡ các cơ hội phát triển kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp.

- Việc chấp hành một số quy định của pháp luật sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các doanh nghiệp thực hiện chưa nghiêm. Một số doanh nghiệp chưa nắm được những nội dung cơ bản của Luật Doanh nghiệp nên nhiều quy định của Luật Doanh nghiệp chưa được thi hành đầy đủ, như: thông tin bố cáo thành lập, thay đổi của doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung điều lệ của công ty; báo cáo tiến độ góp vốn của doanh nghiệp; báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,...Một số cơ sở sản xuất - kinh doanh chưa thực hiện tốt quy định của pháp luật về một số lĩnh vực như: lao động, kế toán - thống kê, thuế, thậm chí có một số cá nhân còn vi phạm pháp luật thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, một số doanh nghiệp chậm triển khai xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh sau khi đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất..., chưa chú trọng đến biện pháp bảo vệ môi trường.

- Một số doanh nghiệp khi tạm ngừng hoạt động, giải thể không tiến hành thủ tục theo quy định. Một số doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện, chưa thực hiện đầy đủ các quy định khi đi vào hoạt động,...

2.4. Thuận lợi và khó khăn trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội

2.4.1. Thuận lợi

- Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi, áp dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp, bình đẳng và phù hợp trong

nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, các cấp chính quyền đối với doanh nghiệp, tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp; vai trò, vị thế doanh nghiệp, doanh nhân được đề cao.

- Các văn bản hướng dẫn thực hiện thực hiện Luật Doanh nghiệp như: Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 01/2013/TT-BKH ngày 21/01/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã quy định rất chi tiết, cụ thể, thể hiện tư duy mới, tính sáng tạo và quyết tâm của Chính phủ, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đối với việc cải cách, thay đổi cơ bản về công tác đăng ký kinh doanh theo chuẩn mực quốc tế.

- Việc triển khai thực hiện Hệ thống Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia (NBRS) thực sự là một cuộc “cách mạng” đối với công tác ĐKKD. NBRS đã ngày càng thực hiện tốt nhiệm vụ là hệ thống thông tin nghiệp vụ chuyên môn về đăng ký doanh nghiệp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và vận hành để gửi, nhận, lưu trữ, hiển thị hoặc thực hiện các xử lý khác đối với dữ liệu phục vụ công tác đăng ký doanh nghiệp.

- Việc triển khai Quyết định số 419/QĐ-TTg Phê duyệt “Đề án đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau khi đăng ký thành lập” với những đổi mới trong công tác hậu kiểm đối với doanh nghiệp đã tạo cơ sở nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính của các cơ quan Nhà nước trong thời gian qua đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương đặc biệt quan tâm, nhất là việc thực hiện “cơ chế một cửa liên thông” trong giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến người dân và doanh nghiệp đã tác động tích cực đến thực hiện Luật Doanh nghiệp tại Hà Nội.

- Sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo Thành phố (Thành ủy, HĐND, UBND) trong công tác tập huấn, quán triệt thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp chính quyền địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực thi Luật Doanh nghiệp năm 2005.

2.4.2. Khó khăn, vướng mắc

Trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp, công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, đặc biệt là công tác quản lý doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội, qua nghiên cứu, khảo sát thực tế còn gặp những vấn đề khó khăn, vướng mắc chính sau đây:

2.4.2.1. Khó khăn trong đăng ký kinh doanh

Về phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2005

Luật Doanh nghiệp 2005 ban hành với phạm vi điều chỉnh “về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (sau đây gọi chung là doanh nghiệp); quy định về nhóm công ty.”. Theo quy định trên việc đăng ký kinh doanh được thực hiện theo Luật doanh nghiệp, tuy nhiên việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được điều chỉnh bởi nhiều văn bản luật khác nhau (như Luật Đầu tư - Điều 50; Luật kinh doanh bảo hiểm - Điều 65; Luật chứng khoán - Điều 59…) và do nhiều cơ quan cấp Giấy chứng nhận (cơ quan đăng kinh doanh, cơ quan quản lý

hoạt động đầu tư, Sở Tư pháp, Ban quản lý khu CN&CX, UBCK Nhà nước, Bộ Tài Chính…). Cụ thể một số ví dụ như: (1) Điều 20 Luật Doanh nghiệp và Điều 50 Luật Đầu tư đều quy định về việc nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam được cấp giấy chứng nhận đầu tư, đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Về mặt pháp lý giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp (giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh gắn với một doanh nghiệp), trong khi giấy chứng nhận đầu tư chỉ xác lập tính hợp pháp cho một hành vi kinh doanh của doanh nghiệp (giấy chứng nhận đầu tư gắn với một dự án). (2) Điều 65 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng là một ví dụ tương tự.

Về thành phần hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Nghị định 43/2010/NĐ-CP hồ sơ thành lập Công ty cổ phần, Công ty TNHH và Công ty hợp danh nộp cho cơ quan đăng ký kinh doanh phải có bản dự thảo điều lệ Công ty. Thực tế, trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có quyền sửa đổi nội dung Điều lệ mà không cần phải thông báo đến cơ quan đăng ký kinh doanh do đó bản Dự thảo Điều lệ công ty nộp cho cơ quan đăng ký kinh doanh tại thời điểm thành lập có thể không phải là bản có giá trị cuối cùng. Về phía cơ quan đăng ký kinh doanh, việc thu bản dự thảo Điều lệ của doanh nghiệp là không cần thiết vì chỉ cần Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp (đối với Công ty cổ phần, Công ty TNHH 2 thành viên và Công ty hợp danh thì có thêm Danh sách thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh; danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần lập theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định) là đủ thông tin để cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

Về ngành nghề đăng ký kinh doanh và việc hướng dẫn ngành nghề cấm kinh doanh và ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Hiện nay theo quy định của Luật doanh nghiệp: “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định”. Và khoản 1 điều 7 Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định: “Căn cứ vào Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam, người thành lập doanh nghiệp tự lựa chọn ngành, nghề kinh doanh và ghi mã ngành, nghề kinh doanh vào Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh đối chiếu và ghi ngành, nghề kinh doanh, mã số ngành, nghề kinh doanh vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”. Hiện nay, nếu doanh nghiệp đăng ký ghi ngành nghề theo mã cấp 4, thì danh mục ngành nghề doanh nghiệp đăng ký có thể dài đến cả chục trang giấy. Điều này thực sự không cần thiết, bởi doanh nghiệp chỉ cần ghi ngành nghề theo mã cấp 2 hoặc cấp 3 là đã đáp ứng đủ yêu cầu kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có quá nhiều ngành nghề thực tế có trong xã hội nhưng lại không có trong hệ thống này và trong hệ thống có những ngành nghề không phải là ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Việc để doanh nghiệp tìm hiểu và ghi đúng ngành nghề theo mã ngành của Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam rất mất thời gian, trong khi đó “Việc mã hóa ngành, nghề đăng ký kinh doanh trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa trong công tác thống kê”.

Quy định về chứng chỉ hành nghề tại Điều 16, 17, 18, 19 của Luật doanh nghiệp: “Chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề” chưa được giải thích rõ và không thống nhất với quy

định của pháp luật chuyên ngành, dẫn đến vướng mắc khi doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, nghề và một giám đốc, cá nhân không thể có đủ tất cả các loại chứng chỉ hành nghề theo quy định.

Mặc dù Luật Doanh nghiệp đã quy định các ngành nghề bị cấm kinh doanh và các ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhưng danh mục này vẫn chưa được cụ thể, gây ra sự lúng lúng cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Mặt khác, theo quy định thì một trong những nhiệm vụ của Phòng đăng ký kinh doanh là hướng dẫn người đăng ký kinh doanh về ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện và điều kiện kinh doanh các ngành, nghề đó. Nhưng trong thực tế, các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện do nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác nhau ban hành dưới các hình thức văn bản pháp luật khác nhau. Do vậy, rất khó khăn trong việc theo dõi, cập nhật văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, quy định về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thường mang tính kỹ thuật, chuyên ngành, đòi hỏi phải có cán bộ chuyên môn nghiệp vụ nghiên cứu và hướng dẫn; cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh không thể nắm hết được các điều kiện kinh doanh này. Vì vậy pháp luật giao nhiệm vụ này cho Phòng đăng ký kinh doanh là không khả thi. Mặt khác, pháp luật quy định sau khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận này được gửi tới sở quản lý ngành, như vậy đúng ra trách nhiệm hướng dẫn doanh nghiệp về ngành, nghề kinh doanh có điều kiện là của các cơ quan quản lý chuyên ngành.

Các quy định về góp vốn

- Điều 4 Luật Doanh nghiệp quy định:“Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 17/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí