(1). Hệ thống hoá các vấn đề về quản lý kinh tế biển, từ khái niệm, vai
trò, chiến lược, chính sách, mô hình đến thể chế phát triển kinh tế biển.
(2). Lần đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống những cơ sở lý luận của quản lý kinh tế biển: Khái niệm, vai trò, các quan điểm và cách tiếp cận,…
(3). Đề tài nghiên cứu thực tiễn quản lý kinh tế biển của Trung Quốc, Malaysia và Singapore, để tìm ra các vấn đề có tính quy luật trong quản lý kinh tế biển nói chung.
(4). Từ các vấn đề có tính quy luật trong quản lý kinh tế biển được rút ra từ thực tiễn phát triển kinh tế biển của Trung Quốc, Malaysia và Singapore, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn Việt Nam, đề tài đưa ra một số đề xuất, mang tính gợi ý chính sách về quản lý kinh tế biển Việt Nam trong thời gian tới.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý kinh tế biển. Trong chương này,
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý kinh tế biển - Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam - 1
- Quản lý kinh tế biển - Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam - 2
- Những Vấn Đề Đã Thống Nhất, Các Vấn Đề Còn Tranh Luận, Các Vấn Đề Còn Bỏ Ngỏ Liên Quan Đến Luận Án
- Một Số Quan Điểm Và Cách Tiếp Cận Về Quản Lý Kinh Tế Biển
- Chính Sách Quản Lý Thúc Đẩy Phát Triển Các Trung Tâm Kinh Tế Biển Trong Cạnh Tranh Quốc Tế
- Ba Cách Hiểu Về Lãnh Hải Và Đường Cơ Sở Theo Điều 3 Và Điều 7 Unclos
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
luận án trình bày các khái niệm về kinh tế biển, quản lý kinh tế biển, vai trò của quản lý kinh tế biển, các quan điểm và cách tiếp cận về quản lý kinh tế biển,…
Chương 2: Quản lý kinh tế biển của thế giới: Trường hợp Trung Quốc, Malaysia và Singapore. Trong chương này luận án trình bày, phân tích các vấn
đề về
quản lý và phát triển kinh tế
biển của Trung Quốc, Malaysia và
Singapore mà trọng tâm vào 5 lĩnh vực chính: (1) Kinh tế hàng hải (phát triển cảng biển và vận tải bằng tàu biển); (2) Khai thác khoáng sản (chủ yếu là khai thác dầu); (3) Khai thác hải sản; (4) Phát triển du lịch biển; (5) Phát triển các khu kinh tế ven biển. Sau khi phân tích luận án cũng đưa ra các đánh giá nhưng thành công cũng như những thất bại để từ đó tìm ra các vấn đề có tính quy luật trong quản lý kinh tế biển.
Chương3: Vận dụng kinh nghiệm quản lý kinh tế biển của thế giới vào Việt Nam và một số gợi ý chính sách. Trong chương này, luận án đi sâu phân tích vấn đề quản lý kinh tế biển Việt Nam từ trước đến nay để tìm ra được những hạn chế cần khắc phục, từ đó vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc,
Malaysia và Singapore vào quản lý kinh tế biển Việt Nam và đưa ra một số gợi
ý chính sách.
Mặc dù có sự nỗ lực của bản thân nhưng đây là một đề tài rộng, do trình độ, thời gian, kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ BIỂN
1.1. Các khái niệm cơ bản về quản lý kinh tế biển
1.1.1. Khái niệm kinh tế biển
Từ xa xưa, con người đã
biết dựa vào biển để
khai thác các tài
nguyên biển: Trên mặt nước biển (dựa vào biển để di chuyển hàng hóa, giao lưu kinh tế, phát triển du lịch biển,…), tài nguyên trong lòng biển (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, rong biển, tảo biển,…), tài nguyên dưới lòng đại dương (khai thác dầu khí, khai khoáng,…), phát triển kinh tế ven biển để phục vụ khai thác biển (chế biến hải sản, phát triển dịch vụ hậu cần cho khai thác biển, phát triển các khu kinh tế biển,…). Tất cả các hoạt động kinh tế trên đều được coi là hoạt động kinh tế biển.
Bên cạnh những nội dung trên thì khái niệm kinh tế biển cũng có thể
được hiểu theo nhiều khía cạnh, có tài liệu cho rằng: “KINH TẾ BIỂN là hoạt động kinh tế có ba lợi ích kinh tế phục vụ con người rõ ràng nhất là
vận tải đường biển, khai thác nguồn tài nguyên phong phú của biển và du lịch, viễn thông”1.
Còn theo tài liệu nghiên cứu về kinh tế biển của Đà Nẵng thì cho
rằng: “KINH TẾ BIỂN là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế
trên biển với các hoạt động kinh tế trên đất liền, trong đó biển chủ yếu đóng vai trò khai thác nguyên liệu, cho hoạt động vận tải, hoạt động du lịch trên biển, còn hầu hết các hoạt động tổ chức sản xuất, chế biển, hậu
cần dịch vụ phục vụ khai thác biển lại nằm trên đất liền. Sự phát triển
mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật trong mấy thập kỷ gần đây
cho phép con người có thể khai thác, sử dụng nhiều loại tài nguyên thiên nhiên của biển và đại dương”2.
1 Đào Duy Quát và Phạm Văn Linh (2008), Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2008, tr. 33.
2 Huỳnh Văn Thanh (2002), Giải pháp cơ bản nhằm phát triển bền vững và có hiệu quả kinh tế biển thành phố
Theo PGS. TS. Bùi Tất Thắng trong bài viết về “Chiến lược kinh tế
biển: Cách tiếp cận và những nội dung chính” thì cho rằng khái niệm kinh tế biển vẫn là khái niệm còn chưa có sự thống nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, trong phân tích và thống kê kinh tế, việc quy ước nội dung kinh tế biển lại không phải vấn đề gây nhiều tranh cãi về mặt học thuật. Về cơ bản,
kinh tế biển là khái niệm mang tính thực tiễn, nghĩa là người ta có thể
không tranh cãi nhiều về bản thân các ngành nghề thuộc kinh tế biển, mà phần phải bàn cãi nhiều hơn lại thuộc về lĩnh vực liên quan và không phải diễn ra trên biển. Do tính đặc thù của môi trường biển, mọi hoạt động kinh tế biển đều liên quan mật thiết và được quyết định từ trong đất liền, nên không thể nói về kinh tế biển mà không tính tới những hoạt động kinh tế liên quan đến biển ở vùng duyên hải.
PGS. TS. Bùi Tất Thắng3 và PGS. TS. Chu Đức Dũng4 trong các công trình nghiên cứu của mình đều có chung quan điểm về nội hàm kinh tế biển như sau:
- KINH TẾ
BIỂN hiểu theo nghĩa hẹp là toàn bộ
hoạt động kinh tế
diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: (1) Kinh tế hàng hải(vận tải biển và dịch vụ cảng biển); (2) Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); (3) Khai thác dầu khí ngoài khơi; (4) Du lịch biển; (5) Làm muối; (6) Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và (7) Kinh tế đảo.
- KINH TẾ BIỂN hiểu theo nghĩa rộng là các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này lại nhờ vào yếu tố biển hoặc
trực tiếp phục vụ
các hoạt động kinh tế
biển
ở dải đất liền ven
biển, bao gồm: (1) Đóng và sửa chữa tàu biển (Hoạt động này cũng xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); (2) Công nghiệp chế biến
Đà nẵng, Đề tài Khoa học cấp Thành phố, Sở Kế hoạch và Đầu tư, UBND Tỉnh Đà Nẵng, năm 2002, tr. 3.
3 Bùi Tất Thắng (2007), Chiến lược kinh tế biển: Cách tiếp cận và những nội dung chính, kỷ yếu Hội thảo, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tháng 12/2007
4 Chu Dức Dũng (2011), Chiến lược phát triển kinh tế Biển Đông của một số nước Đông Á - Tác động và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Đề tài Nhà nước.
dầu, khí; (3) Công nghiệp chế biến thủy, hải sản; (4) Cung cấp dịch
vụ biển; (5) Thông tin liên lạc (biển); (6) Nghiên cứu khoa học công - nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển.
Chẳng hạn như trong tài liệu Chiến lược khai thác biển của Trung
Quốc5 và một số rằng: “KINH TẾ
tài liệu thống kê hàng năm của Trung Quốc đều chỉ ra
BIỂN bao gồm: Hải sản, khai thác dầu và khí tự nhiên
ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng tàu biển, viễn thông và vận tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển, bảo vệ môi trường
biển, dịch vụ biển,…”.
Khái niệm về kinh tế biển, cho tới nay, vẫn chưa có sự thống nhất.
Tuy nhiên, các khái niệm về kinh tế biển của trong nước và nước ngoài
đưa ra nhìn chung vẫn coi kinh tế biển là các hoạt động có liên quan tới biển. Phát triển kinh tế biển được hiểu là một trong những nội dung quan
trọng trong phát triển kinh tế tổng thể quốc gia. Nó thể hiện tầm nhìn dài
hạn “hướng ra biển” của quốc gia đó nhằm thúc đẩy hoạt động kinh tế biển lên tầm tương xứng với tiềm năng của biển.
Từ những phân tích trên, tôi cho rằng: KINH TẾ BIỂN là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển (tuy không phải diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển).
1.1.2. Quản lý kinh tế biển
“QUẢN LÝ KINH TẾ BIỂN là một phần của hoạt động quản lý xã hội nói chung và là một phần của hoạt động quản lý kinh tế nói riêng mà
đối tượng quản lý của nó chính là các hoạt động kinh tế biển với mục tiêu
5 Dương Kim Thâm, Lương Hải Tâm, Hoàng Minh Lỗ (1990), Chiến lược khai thác biển của Trung Quốc, NXB Đại học Công nghiệp Vật lý Hoa Trung, Trung Quốc, năm 1990.
là để thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy kinh tế biển nói
riêng”.
Quản lý nhà nước về kinh tế biển bao gồm hai phần chính là chính sách quản lý và các tổ chức quản lý. Chính sách quản lý là hệ thống các quan điển, đường lối, các kế hoạch, các hệ thống văn bản pháp luật,…để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế biển. Quản lý kinh tế biển có thể được mô tả dưới dạng sở đồ sau:
Chính sách quản lý kinh tế biển
Cơ quan tổ chức hoạt động kinh tế biển
Khai thác khoáng sản biển
Hoạt động khai thác nguồn lợi từ biển
Quản trị kinh doanh biển
(Quản lý vi mô hay Quản lý doanh nghiệp)
Quản lý kinh tế biển
(Quản lý vĩ mô hay Quản lý nhà nước)
Kinh tế hàng hải
Khai thác hải sản
Du lịch biển
Các khu kinh tế ven biển
Các hoạt động khác
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 1.1: Sơ đồ quản lý kinh tế biển
Nội dung chủ yếu trong quản lý kinh tế biển phải bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng chính sách phát triển kinh tế biển: Chính sách huy động
các nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh tế biển; Chính sách khoa học công nghệ phục vụ kinh tế biển; Chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho quản lý kinh tế biển; Chính sách hợp tác quốc tế về quản lý kinh tế biển; Chính sách ngoại giao kinh tế biển…
- Xây dựng thể chế phát triển kinh tế biển như hệ thống pháp luật
biển, xây dựng cơ
cấu quản lý nhà nước về
kinh tế
biển, quy
định các thành phần tham gia phát triển kinh tế biển,…
- Xây dựng quy hoạch, kế
hoạch về
kinh tế
biển, Huy động các
nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh tế biển.
Nội dung chủ yếu của quản lý kinh tế biển
Từ các khái niệm về kinh tế biển và quản lý kinh tế biển như đã nêu
ở trên thì có thể thấy nội dung chủ yếu của quản lý kinh tế biển chính là quản lý phát triển các lĩnh vực thuộc về kinh tế biển nhằm thúc đẩy kinh tế biển phát triển để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nói chung. Quản lý kinh tế biển có thể được nhìn trên hai giác độ: (1) Quản lý kinh tế biển ở tầm vĩ mô, nó thể hiện ở chiến lược phát triển kinh tế biển của quốc gia, các quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế biển, các chính sách vĩ mô của nhà nước nhằm phát triển kinh tế biển (như chính sách đầu tư, chính sách khoa học-công nghệ, chính sách đào tạo nguồn nhân lực…), một số
luật về
phát triển kinh tế
biển. Quản lý kinh tế biển
ở tầm vĩ mô cũng
nghiên cứu chính sách quản lý của nhà nước đối với những lĩnh vực cụ thể của kinh tế biển như: phát triển cảng biển, vận tải bằng tàu biển, khai thác dầu mỏ và khoáng sản, khai thác hải sản, du lịch biển và phát triển các khu
kinh tế ven biển; (2) Quản lý kinh tế biển ở tầm vi mô là quản lý của các
doanh nghiệp đối với hoạt động kinh tế biển.
Bên cạnh các lĩnh vực trên thì quản lý kinh tế biển còn liên quan tới
nhiều lĩnh vực khác như cứu hộ cứu nạn trên biển, sử lý các vấn đề về ô nhiễm môi trường biển, phòng trống thiên tai, phát triển nguồn nhân lực cũng như phát triển khoa học kỹ thuật biển, hợp tác quốc tế về biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển,…
Luận án này nghiên cứu quản lý kinh tế biển chủ yếu ở tầm vĩ mô.
Chiến lược kinh tế biển
Chiến lược kinh tế biển là tập hợp một cách thống nhất chuỗi các
mục tiêu, các chính sách và kế hoạch cho một tầm nhìn dài hạn. Nó thể hiện tầm nhìn dài hạn “hướng ra biển” của quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế biển lên tầm tương xứng với tiềm năng của biển, nhằm xây dựng một quốc gia mạnh về biển, phát triển kinh tế biển.
Chiến lược kinh tế biển
Mục tiêu phát triển kinh tế biển
Chính sách phát triển kinh tế biển
Kế hoạch hành động
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Hình 1.2: Chiến lược quản lý kinh tế biển
Chiến lược kinh tế
biển phải đảm bảo một số
nguyên tắc như:
Chiến lược quản lý kinh tế biển phải phải đảm bảo có tính thống nhất, đồng bộ và nhất quán ở tầm quốc gia; tính ổn định, lâu dài, tính khả thi .