hội. Nếu như phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của trao đổi, thì đến lượt mình sự phát triển của sản xuất hàng hóa, của lực lượng sản xuất tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển của phân công lao động, chuyên môn hóa ở trình độ cao hơn mà mới về chất. Phân công lao động xã hội dựa trên cơ sở tập trung sản xuất, tập trung tư liệu sản xuất. Phân công chuyên môn hóa càng sâu, trao đổi càng mở rộng và thường xuyên, đấy là hai mặt của cùng một quá trình tác động lẫn nhau. Sự phân công lao động gắn liền với tách biệt về kinh tế giữa các chủ thể, việc trao đổi sản phẩm được thể hiện thông qua hình thức quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Sản xuất hàng hóa phát triển phạm vi ngày càng mở rộng, quy mô lớn tập trung, khối lượng hàng hóa lớn, chủng loại đa dạng… và quan hệ hàng hóa – tiền tệ trở thành phổ biến, mối quan hệ kinh tế đều được giải quyết thông qua thị trường đó là kinh tế thị trường. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường dựa trên sự phát triển của phân công, chuyên môn hóa theo ngành – lĩnh vực và theo lãnh thổ – vùng kinh tế. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, hội nhập thị trường dân tộc, quốc gia với thị trường thế giới, hoạt động buôn bán ở các cửa khẩu gia tăng mạnh mẽ về mọi mặt cả quy mô, tốc độ và cơ cấu chủng loại hàng hóa. Lúc đầu các hoạt động trao đổi hàng hóa được thực hiện ở các chợ truyền thống ở vùng biên giới. Về sau, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, đã hình thành các trung tâm thương mại lớn diễn ra các giao dịch với khối lượng hàng hóa lớn, chủng loại khác nhau. Ngoài hàng hóa tiêu dùng cá nhân, những sản phẩm hàng hóa là nguyên vật liệu, phụ liệu cho các ngành công nghiệp chế biến tăng nhanh. Các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh tổng hợp nhiều lĩnh vực: thương mại, đầu tư, xây dựng có xu hướng chuyên môn hóa, chuyên doanh thương mại, có thể đến ngành hàng, mặt hàng cụ thể. Mặt khác, hoạt động buôn bán qua biên giới đòi hỏi phải có
những dịch vụ phục vụ cho nó, các bộ phận cung cấp dịch vụ có xu hướng liên kết với nhau. Có thể nói đó là tổng thể các quan hệ kinh tế phức tạp đan xen nhau mang tính đặc thù của KTCK, cần được tổ chức quản lý theo phương pháp, hình thức, cách thức riêng. KKTCK ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phân công lao động theo ngành và phân công – chuyên môn hóa theo vùng lãnh thổ.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, việc hình thành và phát triển KKTCK biên giới đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước
Hiện nay thế giới đang trong quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập quốc tế. Đây là là xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay. Quá trình này đã lôi cuốn hầu hết các nước vào một hệ thống kinh tế thế giới trên cơ sở phân công, hợp tác lao động Quốc tế. Các quốc gia khác vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên khoáng sản… là tiềm năng có thể phát huy lợi thế so sánh trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt xét trên bình diện thế giới và khu vực, các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, mỗi quốc gia tham gia vào những phân khúc của thị trường thế giới trong chuỗi giá trị gia tăng. Mặt khác, quốc gia độc lập, có chủ quyền và thể chế chính trị, thể chế kinh tế riêng. Mỗi quốc gia đều có lợi ích kinh tế của mình, tức là có sự khác biệt về lợi ích kinh tế, thậm chí là xung đột với nhau. Rõ ràng, trong quan hệ kinh tế quốc tế của các quốc gia nói chung và những quốc gia có chung biên giới là mối quan hệ của liên hệ phụ thuộc vào nhau vừa đấu tranh bảo vệ lợi ích của quốc gia mình. Nhà nước với tư cách là chủ thể đại diện quốc gia thực hiện chức năng điều phối các quan hệ kinh tế đối ngoại, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa mở rộng hợp tác quốc tế.
Rõ ràng KKTCK là hình thức tổ chức kinh tế thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế tất yếu cần phải có sự quản lý của Nhà nước. Đó là quá trình có tính quy luật hình thành và phát triển của KKTCK. Song ở đây về nhận thức cần phân biệt giữa yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước với quản lý của Nhà nước được thực hiện bằng những phương thức, các biện pháp như thế nào là mang tính chủ quan. Về vấn đề này C.Mác đã chỉ ra: khi tiến hành các hoạt động chung tất yếu phải có sự chỉ huy phối hợp từ một trung tâm… và Nhà nước thực hiện chức năng của người nhạc trưởng điều phối hoạt động chung đó.
Tóm lại, quá trình hình thành và phát triển KKTCK đòi hỏi Nhà nước trực tiếp can thiệp các quá trình kinh tế – xã hội bằng việc ban hành cơ chế, chính sách riêng cho KKTCK. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của KKTCK phụ thuộc vào tính khoa học và thực tiễn của cơ chế, chính sách đó.
1.1.3. Vai trò khu kinh tế cửa khẩu biên giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Và Kinh Nghiệm Thực Tiễn Về Phát Triển Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Biên Giới Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Quan Niệm Về Phát Triển Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Biên Giới
- Điều Kiện Hình Thành Và Phát Triển Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Biên Giới
- Nội Dung, Tiêu Chí Đánh Giá Và Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Biên Giới
- Tiêu Chí Đánh Giá Phát Triển Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Biên Giới
- Sự Phát Triển Của Các Doanh Nghiệp Tại Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Biên Giới
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường mỗi quốc gia mở rộng và thân thiện, trước hết thông qua các KKTCK trên đất liền, các thiếu hụt được bù đắp, dư thừa được san sẻ, thế mạnh được nhân lên theo hướng phân công lao động trên lợi thế so sánh; đồng thời tạo cơ hội giao lưu văn hóa; gắn kết hòa bình bền vững. Có thể nói các khu kinh tế này là những “mắt xích” quan trọng của các nền kinh tế.
Thứ nhất, phát triển KKTCK biên giới nhằm thúc đẩy giao thương giữa các quốc gia qua cửa khẩu
Hợp tác kinh tế và hội nhập hiện đang là xu thế không thể đảo ngược của phát triển kinh tế thế giới hiện nay. Xu thế này đã được thúc đẩy mạnh mẽ từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ trước cùng với các quá trình cải cách kinh tế
theo hướng tự do hóa và mở cửa kinh tế tại nhiều nước. Hội nhập kinh tế, nói theo nghĩa rộng là sự liên kết quốc tế ngày càng sâu sắc các quá trình sản xuất, kinh doanh và các loại hình thị trường giữa các nước. Quá trình này đẩy nhanh không chỉ thương mại hàng hóa, dịch vụ truyền thống, mà còn cả những giao dịch mới khác qua biên giới.
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng quá trình hội nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia phát huy lợi thế so sánh, giảm chi phí nhờ mở rộng quy mô, chuyển giao vốn, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, loại bỏ những hạn chế và lệch lạc của thị trường bị cát cứ, bó hẹp trong từng quốc gia. Về mặt dài hạn, hợp tác kinh tế cho phép các nước có thể tận dụng lợi thế so sánh của mình, thúc đẩy và duy trì tăng trưởng bền vững, nâng cao phúc lợi dân cư thông qua việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Về mặt ngắn hạn, hợp tác kinh tế đòi hỏi các nước phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xem xét lại để có quyết sách thích hợp đối với những ngành kém hiệu quả, thiếu tính cạnh tranh.
Giao lưu kinh tế qua biên giới với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước láng giềng có thể mang lại nhiều lợi thế: tận dụng được ưu thế liền núi, liền sông, liền đường giữa các nước láng giềng; bổ sung cho nhau giữa dân cư, doanh nghiệp hai nước láng giềng, do đó, mức cạnh tranh chưa gay gắt như các giao lưu kinh tế qua hàng không, đường biển; sản phẩm giao lưu kinh tế qua biên giới không quá chênh lệch về cơ cấu ngành nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị trường; có những hình thức đa dạng hơn so với buôn bán qua các cửa khẩu hàng không, hàng hải qua đó thúc đẩy phát triển đa dạng quan hệ, trao đổi chính thức ở cấp Nhà nước. Chính nhờ có những lợi thế đó mà giao lưu kinh tế qua khu vực cửa khẩu biên giới được coi là một trong những hình thức xúc tiến hội nhập kinh tế quốc tế đáng được quan tâm.
Hình thành và phát triển KKTCK sẽ tạo ra một địa bàn để tăng cường giao lưu giữa hai nước, khai thác tiềm năng du lịch, công nghiệp để phát triển du lịch và công nghiệp, tận dụng được các lợi thế tiềm năng của từng địa phương ở cả hai bên đường biên, huy động sự tham gia của nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội như ngoại giao, sản xuất hàng xuất khẩu, nghiên cứu khoa học công nghệ, tài chính,...của các tỉnh, các vùng có biên giới với các nước láng giềng vào hoạt động kinh tế đối ngoại ở khu vực biên giới. Cùng với việc hình thành KKTCK sẽ hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng tổng hợp với mạng lưới giao thông nối liền giữa KKTCK với nước bạn và nội địa của nước ta, tạo điều kiện lôi kéo và thúc đẩy hợp tác liên vùng về kinh tế - xã hội giữa các vùng của đất nước.
Hình thành và phát triển các KKTCK cũng chính là hình thành các đầu mối quan hệ liên vùng của hợp tác hai hành lang, một vành đai kinh tế ở khu vực phía Bắc; hợp tác phát triển hành lang kinh tế Đông - Tây ở miền Trung và hành lang kinh tế đường xuyên Á ở phía Nam.
Thứ hai, phát triển KKTCK biên giới sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với các nước láng giềng và vươn tới các nước khác
Ngày nay, những đổi thay trong đời sống kinh tế thế giới cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến nhu cầu về mở cửa và hợp tác giữa các nước láng giềng, trong đó quan trọng nhất phải kể đến các yếu tố như xu hướng hợp tác và hội nhập chung trên thế giới và khu vực và yếu tố địa lý, lịch sử, văn hóa. Những nước láng giềng là những nước gần gũi nhau về mặt địa lý, lại là những nước có nhiều đặc điểm chung về truyền thống, văn hóa, tập quán, nên thường có những điểm tương đồng về trình độ phát triển, cách tư duy kinh tế,
thị hiếu tiêu dùng…Những đặc điểm này chính là điều kiện tiên quyết để đi đến quyết định hợp tác trong kinh tế thương mại.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng thương mại thường giữ vai trò chính yếu nhất trong các hoạt động giao lưu kinh tế qua biên giới các nước. Đẩy nhanh hoạt động thương mại tại khu vực các cửa khẩu biên giới sẽ là động cơ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng xuất khẩu; đến lượt mình, xuất khẩu tăng sẽ làm tăng tổng năng suất các yếu tố. Đương nhiên, việc tăng cường các hoạt động giao lưu thương mại qua biên giới cũng sẽ đưa lại những ảnh hưởng không mong muốn nhất định. Song, các ảnh hưởng tiêu cực, nếu có, đều có thể kiểm soát và giảm thiểu được.
Thông qua việc hình thành và phát triển các KKTCK sẽ góp phần tăng cường, mở rộng và nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa nước ta với Trung Quốc, Lào, Campuchia và qua các nước đó tới các nước khác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương hai bên biên giới và cùng nhau khai thác các tiềm năng và lợi thế của KKTCK ở mỗi bên.
Việc phát triển các KKTCK ở khu vực biên giới sẽ tạo lập quan hệ hữu nghị, thân thiện, hiểu biết lẫn nhau giữa các nước chung đường biên giới; cùng hợp tác khai thác kinh tế, xây dựng vùng biên giới hữu nghị, hợp tác, phát triển.
Đây cũng là cách giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh có KKTCK; gia tăng buôn bán và du lịch biên giới sẽ thúc đẩy quá trình đô thị hóa, cải thiện cơ sở hạ tầng khu vực. Cùng với phát triển du lịch, thương mại cửa khẩu sôi động sẽ là quá trình đô thị hóa để thu hút du khách, thương nhân,... trong vùng, khắp mọi miền đất nước, từ các nước láng giềng tham gia đi lại, vận chuyển hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp cho dân cư
các nơi có KKTCK. Gắn liền với đó sẽ là các dự án hợp tác thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước láng giềng, qua đó với nhiều nước khác.
Thực tế trong những năm qua, hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá qua biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia đã góp phần đẩy mạnh sản xuất trong nước phát triển, đồng thời tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế, phát huy các tiềm năng lợi thế của vùng giáp biên. Giao lưu kinh tế qua cửa khẩu là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao đời sống cho dân cư vùng biên giới Việt Nam giáp Trung Quốc, Lào và Campuchia, góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền móng cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật tới vùng biên giới xa xôi hẻo lánh. Góp phần củng cố tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng.
Thứ ba, phát triển KKTCK biên giới tạo điều kiện nâng cấp hoạt động buôn bán tiểu ngạch qua biên giới
Trong hoạt động kinh doanh khu vực hành lang kinh tế, buôn bán tiểu ngạch qua biên giới tuy có mang lại lợi ích kinh tế trước mắt nhưng đây là hình thức trao đổi thương mại quốc tế cấp thấp, thiếu tính ổn định, chứa đựng nhiều yếu tố kinh tế ngầm, bất hợp pháp, gây ảnh hưởng bất lợi đối với an sinh xã hội. Buôn bán tiểu ngạch vùng biên giới thường mang tính tự phát; không được Nhà nước, tổ chức hay công ty lớn nào bảo đảm và không có bảo hiểm nên gặp nhiều rủi ro, làm nản lòng các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh ở khu vực biên giới.
Khi chính sách của nước láng giềng đột ngột thay đổi, các doanh nhân của ta chưa kịp thời nắm bắt thông tin nên dẫn đến tình trạng hàng đã đến biên giới sau khi trải qua hàng trăm, hàng nghìn cây số và rất nhiều khó khăn trong bảo quản, kiểm dịch,... lại bị cấm hoặc đánh thuế quá cao so với chi phí kinh doanh và vận chuyển.
Việc hình thành các KKTCK là nhằm đưa các hoạt động trao đổi thương mại vào tổ chức hoạt động đúng hướng, đúng tầm về quy mô và cấp độ, giám sát chặt chẽ (thuế quan, chất lượng, xuất xứ,...), cung cấp kịp thời thông tin (giá cả, chính sách, sự thay đổi chính sách của chính quyền sở tại hai bên đối với thị trường khu vực), tạo điều kiện xây dựng hệ thống dịch vụ bảo đảm về tài chính, tín dụng để khắc phục những tiêu cực trong buôn bán qua biên giới và giúp cho các hoạt động này đạt hiệu quả, đem lại niềm tin cho các doanh nghiệp.
Thứ tư, phát triển KKTCK biên giới góp phần thực hiện các chính sách ưu đãi đối với nhân dân vùng biên giới
Việc tạo ra những KKTCK với những cơ chế chính sách đặc biệt nhằm tạo ra sức bật, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc, tạo cơ sở để ổn định sự đoàn kết dân tộc và ổn định vùng biên giới. Việc áp dụng những cơ chế chính sách hạn chế trên một địa bàn nhỏ, trước khi nhân rộng ra địa bàn cả nước là biểu hiện của các tiếp cận tiệm tiến về không gian, chẳng hạn như khu vực cửa khẩu. Những khu vực biên giới trên bộ, trừ một vài cửa khẩu quốc tế quan trọng của các nước, phần lớn là những khu vực chậm phát triển so với trình độ kinh tế và mặt bằng xã hội của quốc gia. Do vậy, việc áp dụng những cơ chế chính sách đặc biệt cho KKTCK ngoài việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn này còn trực tiếp bù đắp lợi ích, thu nhập, giảm bớt những khó khăn của những người sinh sống, làm việc tại các khu vực này. Hơn nữa, những người dân sống trên địa bàn biên giới thường là đồng bào dân tộc không chiếm đa số trong cộng đồng dân cư của quốc gia. Do đó, việc thực hiện các chính sách ưu đãi với các khu vực biên giới để kinh tế phát triển và cũng để nâng cao đời sống các dân tộc, hòa đồng các quan hệ dân tộc trong quốc gia.