Vai Trò Của Quản Lý Huy Động Vốn Tại Nh Tmcp


dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM.

Khái niệm huy động vốn tại NH TMCP

Vốn là yếu tố quyết định quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vốn là yếu tố đầu vào, nhưng cũng là sản phẩm đầu ra quan trọng mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Do vậy việc huy động và sử dụng vốn phải được tiến hành như thế nào cho phù hợp, thoả mãn tối đa nhu cầu của nền kinh tế, cũng như tối đa lợi nhuận của ngân hàng trên cơ sở chi phí thấp nhất. Huy động vốn và sử dụng vốn đều nằm trong một phương thức quản lý, một trong những công tác cơ bản và đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM.

Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm tạo lập và duy trì nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng. Huy động vốn là các hình thức hoạt động khác nhau của ngân hàng nhằm thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân, các thành phần khác trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình

Công tác quản lý huy động vốn tại NH TMCP

Công tác quản lý huy động vốn tại NHTM là phạm trù phản ánh trình độ, khả năng đảm bảo thực hiện công tác quản lý vốn có kết quả cao, đảm bảo an toàn trong hoạt động, với chi phí nhỏ nhất, rủi ro thấp nhất và đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn cho hoạt động đầu tư, cho vay của ngân hàng một cách có hiệu quả nhất [2].

Huy động vốn trong hoạt động kinh doanh chính là những phương thức quản lý để đạt được những mục tiêu nhất định và phải thông qua việc đạt được các mục tiêu đó, ngân hàng mới có thể đạt được mục tiêu cuối cùng của mình là thu lợi nhuận tối đa, trên cơ sở thoả mãn tối ưu nhu cầu của khách hàng và


tối thiểu hoá mọi chi phí hoạt động. Những mục tiêu đó chính là mục đích để các ngân hàng hướng tới trong kế hoạch hoạt động kinh doanh từng thời kỳ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Công tác huy động vốn phải đảm bảo cân đối giữa cung và cầu vốn của bản thân ngân hàng cũng như của nền kinh tế.

- Công tác huy động vốn phải đảm bảo cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong mọi thời điểm.

Quản lý huy động vốn tại các Chi nhánh phía Bắc Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng - 3

- Công tác huy động vốn phải đảm bảo các chỉ tiêu về hoạt động, đặc biệt là các chỉ tiêu về an toàn theo quy định trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Mục tiêu và cũng là mục đích hoạt động cao nhất mà mọi thành viên trong ban giám đốc cũng như mọi nhân viên ngân hàng hướng tới là lợi nhuận.

1.1.2. Vai trò của quản lý huy động vốn tại NH TMCP

Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm tạo lập và duy trì nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng. Huy động vốn là các hình thức hoạt động khác nhau của ngân hàng nhằm thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân, các thành phần khác trong nền kinh tế để phục vụ mục đích kinh doanh của mình.

a. Đối với toàn bộ nền kinh tế

Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước...nhưng trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất [8].

b. Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

- Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh: Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các NHTM để được phép hoạt động. Ngay từ khi bước vào hoạt động, các ngân hàng cần vốn để mua đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, và những điều kiện làm việc khác.

Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các


nguồn khác. Ngân hàng đi vay để cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng hơn các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác, không có vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình.

- Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng: Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, khả năng thanh toán, chỉ trả cũng như các hoạt động khác. Thông thường, so với các ngân hàng lớn, các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và đối tượng cho vay của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Ngân hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt, có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng.

- Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường: Như đã trình bày ở trên, phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Đặc điểm của nguồn tiền này là hoàn trả khi có yêu cầu nên ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với nhau cầu rút tiền của khách hàng. Vì thế năng lực thanh toán cao là yếu tố các ngân hàng cần phải đảm bảo và luôn được chú trọng.

Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với ngân hàng. Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh toán luôn được các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm cách huy động được nhiều vốn hơn.

- Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng: Trong nền kinh tế


thị trường hiện đại, kinh doanh ngân hàng đang là một lĩnh vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Vì thế nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà quản lý ngân hàng. Trong lĩnh vực này rất khó có thể tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ hay lãi suất. Do đó, để có thể thu hút khách hàng, ngân hàng phải có một tiềm lực tài chính mạnh và ổn định. Tiềm lực tài chính mạnh được xây dựng dựa trên một nguồn vốn lớn [8].

Vì vậy, vốn là điều kiện để các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác: hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi...

1.1.3. Các loại vốn của ngân hàng thương mại

a. Vốn chủ sở hữu

Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của chính ngân hàng, ngân hàng có toàn quyền sử dụng gồm các trang thiết bị, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhà cửa... Đây là nguồn vốn quan trọng vì nó là cơ sở để mở rộng qui mô hoạt động quyết định đến năng lực và vị thế cạnh tranh của NHTM, là tài sản đảm bảo tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, theo đà phát triển của ngân hàng vốn này sẽ tăng dần về số tuyệt đối. Quy mô vốn tự có là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng, đồng thời với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như “tấm đệm” giúp duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Vốn tự có cung cấp sự đảm bảo đối với khách hàng gửi tiền và những chủ nợ khác về khả năng tiếp tục tồn tại và phát triển của ngân hàng trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt. Đồng thời, vốn tự có sẽ bù đắp các khoản lỗ cho đến khi thu nhập phát sinh và được giữ lại để tạo thành vốn bổ sung [2].

- Nguồn vốn hình thành ban đầu: Trước khi tiến hành kinh doanh, theo


quy định của pháp luật, ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, đó là vốn pháp định (hay vốn điều lệ). Tuỳ theo từng loại hình ngân hàng vốn điều lệ được hình thành từ các nguồn khác nhau. NHTM Nhà nước vốn tự có do ngân sách nhà nước cấp, NHTM cổ phần vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp, ngân hàng liên doanh vốn điều lệ do các bên đóng góp. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, ngân hàng có thể chủ động sử dụng chúng vào các mục đích như: Trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng, sử dụng để cho vay, và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh [2].

- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Nguồn bổ sung này có thể từ lợi nhuận hay từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm...

- Các quỹ: Trong quá trình hoạt động, ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích riêng: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng...

- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay nợ trung và dài hạn, ổn định có khả năng chuyển đổi thành cổ phần thì được coi là một bộ phận vốn chủ sở hữu của ngân hàng.

b. Vốn huy động

Vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua hoạt động kinh doanh của mình. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu và ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn.

Vốn huy động là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Với việc huy động vốn, ngân hàng có được quyền sử dụng vốn và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi [2].

- Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền của các doanh nghiệp và cá nhân


gửi vào ngân hàng với mục đích là sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Tiền gửi thanh toán có lãi suất thấp, khoản tiền gửi này được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và và thuận tiện. Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khoản phải trả cho ngân hàng một khoản phí [2].

- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền. Người gửi tiền không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, có nguồn vốn từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi [2].

Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền gửi có kì hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai nên không thể phát séc. Thông thường, tiền gửi có kì hạn là các khoản tiền có thời hạn dài và có lãi suất cao.

Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn đinh, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tài khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.

- Tiền gửi tiết kiệm:

Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐ

- NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác


nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.

Đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho tiêu dùng. Do đó, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và hưởng lãi. Vì thế, tài khoản tiền gửi không thể phát séc hay thực hiện các khoản thanh toán khác ngoại trừ người gửi tiền đề nghị trích tài khoản tiền gửi tiết kiệm để trả nợ vay hay chuyển sang một tài khoản khác của chính chủ tài khoản.

Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại là tiền gửi tiết kiệm không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn

- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: Tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.

- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: Tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền sau một kì hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.

Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng và quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng bán lẻ. Do đó, việc tăng cường huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của NHTM.

- Tiền gửi của các ngân hàng khác: Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường nhỏ, giữa các ngân hàng luôn có tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là để đảm bảo thanh toán thuận tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình.

c. Vốn đi vay

Là giá trị tiền tệ mà NHTM tạo lập được thông qua mối quan hệ giữa NHTM với tổ chức tín dụng khác hoặc với ngân hàng Trung ương nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn. Nguồn vốn đi vay thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu tổng nguồn vốn của ngân hàng nhưng nó là nguồn vốn cần thiết đảm


bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách bình thường. Thông thường, các NHTM sẽ đi vay dài hạn để bổ sung vốn để cho vay hoặc đầu tư, vay ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán hoặc bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc... Các ngân hàng có thể vay từ các nguồn sau:

- Vay Ngân hàng Trung ương: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM, ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, việc ngân hàng Trung ương cho các NHTM vay vốn thực chất là tiếp vốn đưa vào lưu thông. Trong trường hợp thiếu vốn khả dụng để đáp ứng nhu cầu thanh toán và các nhu cầu khác. NHTM vay ngân hàng Trung ương dưới hình thức chủ yếu là tái cấp vốn. Thông thường ngân hàng Trung ương chỉ tái chiết khấu cho những giấy tờ có giá do Chính phủ hoặc chính do ngân hàng Trung ương phát hành. Trong những trường hợp cần thiết, ngân hàng Trung ương cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.

- Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là các khoản vay lẫn nhau giữa các ngân hàng hoặc giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các khoản vay này thông thường có thời hạn ngắn chủ yếu chỉ để giải quyết những nhu cầu tức thời.

- Vay trên thị trường vốn: Các ngân hàng có thể phát hành giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu cho vay trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Khả năng vay mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, các hình thức phát hành, chuyển đổi, thời hạn của các công cụ nợ [2]....

d. Nguồn vốn khác

- Nguồn uỷ thác: Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác qua đó làm tăng nguồn vốn của ngân hàng như uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ...

- Nguồn trong thanh toán: Các khoản thanh toán không dùng tiền mặt như: L/C, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi... hay ngân hàng là đầu mối trong đồng

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/04/2024