Giáo Dục Nghề Nghiệp Và Mối Quan Hệ Của Trường Cao Đẳng Nghề Với Các Cơ Sở Liên Kết Đào Tạo

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Đào tạo

“Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần của mình vào phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn mình của loài người. Đào tạo là một phạm trù giáo dục để chỉ riêng lĩnh vực giáo dục về nghề nghiệp, với một trình độ nghề nghiệp nhất định” [13]. Đào tạo là hoạt động có tổ chức của xã hội loài người nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất, năng lực của con người, có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển và truyền bá văn minh nhân loại.

“Xét từ góc độ chuyển giao kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo và tri thức nghề nghiệp chuyên môn, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm lý cho người học, đào tạo được cấu thành bởi các thành tố cấu trúc gồm mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức đào tạo. Quá trình chuyển giao năng lực nghề nghiệp được thực hiện trong hoạt động cùng nhau của thầy và trò trong một môi trường dạy học được xác định. Xét từ góc độ này đào tạo bao gồm các thành tố: (1) hoạt động dạy học của giáo viên (2) hoạt động học của sinh viên, học sinh (3) môi trường đào tạo (môi trường vật chất và môi trường tinh thần, môi trường văn hóa” [11].

Đào tạo “đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Khái niệm đào tạo thường có nghĩa hẹp hơn khái niệm giáo dục, thường đào tạo đề cập đến giai đoạn sau, khi một người đã đạt đến một độ tuổi nhất định, có một trình độ nhất định. Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cơ bản và đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề, đào tạo lại, đào tạo từ xa, tự đào tạo” [9,Tr18].

Trên quan điểm của tác giả, đào tạo là “quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt các kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn để tạo ra năng lực thực hiện thành công một hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội cần thiết. Như vậy đào tào là sự phát triển hệ thông kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho mỗi cá nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ một cách tốt nhất. Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành vi và thái độ làm việc của con người, làm cho họ có khả năng đáp ứng tiêu chuẩn và hiệu quả công việc chuyên môn.

1.2.2. Quản lý

Quản lý là “quá trình tác động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng việc vận dụng các chức năng và phương tiện quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiền năng và cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra” [1].

Quản lý là một hoạt động có tính chất phố biến, người ta có thể nhìn thấy hoạt động quản lý ở mọi lĩnh vực, mọi lúc, mọi nơi, mọi cấp độ và liên quan đến tất cả mọi người. Quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ thời xa xưa, khi xã hội xuất hiện sự phân công và hợp tác giữa các cá thể với nhau, phối hợp cùng làm một công việc để đạt được mục tiêu chung. Quản lý không phải là hoạt động ngẫu nhiên, tùy tiện mà nó là sự tác động có kế hoạch và được tổ chức chặt chẽ, khoa học. Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý, trong đó chủ thể quản lý đưa ra mệnh lệnh buộc đối tượng quản lý phải thực thi các mệnh lệnh thông qua các phương pháp quản lý khác nhau.

Quản lý có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động của mọi tổ chức và các cá nhân trong tổ chức đó, “nó tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức giữa những người quản lý và người bị quản lý; giữa những người bị quản lý với nhau” [1]. Quản lý định hướng sự phát triển trong tương lai của tổ chức thông qua chức năng lập kế hoạch, xác định mục tiêu hoạt động cũng như cách thức hoạt động của tổ chức, hướng mọi nỗ lực của các đối tượng quản lý vào việc thực hiện để đạt được mục tiêu đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Quản lý có vai trò tổ chức, điều hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân, đảm bảo sự ổn định và thích ứng cao của tổ chức trong môi trường xã hội luôn luôn biến động. Hoạt động quản lý hiệu quả sẽ giúp tổ chức duy trì sự ổn định và phát triển vững bền. Quản lý là một hoạt động tất yếu trong mọi tổ chức, mang lại nhiều lợi ích cho tổ chức nói chung và các thành viên trong tổ chức đó nói riêng, nếu không có hoạt động quản lý thì mọi hành động liên kết, phối hợp trong tổ chức đều trở nên vô nghĩa.

1.2.3. Quản lý đào tạo

Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường Cao đẳng nghề dân tộc nội trú Bắc Kạn - 3

Quản lý đào tạo là “quá tình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý (gồm các cấp quản lý khác nhau từ Ban giám hiệu, các phòng, khoa đến tổ bộ môn và từng giảng viên) lên các đối tượng quản lý (bao gồm giảng viên, sinh viên, cán bộ quản lý cấp dưới và cán bộ phục vụ hoạt động đào tạo) thông qua việc vận dụng chức năng và phương tiện quả lý nhằm đạt được mục tiêu đào tạo của nhà trường” [7,tr28].

Nhiệm vụ của quản lý đào tạo là: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi nhất cho đội ngũ GV thực hiện đổi mới phương pháp dạy học; tạo động lực và khích thích tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ cán bộ, GV tham gia quá trình đào tạo; kết hợp việc phát huy cao độ tính sáng tạo của mỗi cán bộ, giảng viên với sự quản lý thống nhất của đội ngũ CBQL nhà trường; xây dựng cơ chế và có chính sách phù hợp để phát huy tối đa nội lực đi đôi với sự tranh thủ tiềm lực của các lực lượng ngoài nhà trường; đảm bảo chất lượng bền vững.

Quản lý đào tạo cũng có những đặc điểm chung như quản lý, ngoài ra nó còn có những đặc điểm riêng đặc trưng trong lĩnh vực đào tạo:

- Quản lý đào tạo mang tính chất “quản lý hành chính - sư phạm”. Tính hành chính thể hiện ở việc quản lý theo quy định của pháp luật, theo nội quy, quy chế của loại hình đào tạo và theo những quy định chung của cơ sở đào tạo. Tính sư phạm thể hiện việc quản lý phải phù hợp với quá trình dạy học diễn ra trong môi trường sư phạm lấy hoạt động giáo dục - đào tạo làm đối tượng quản lý.

- Quản lý đào tạo mang tính chất đặc trưng của khoa học quản lý, nó thể hiện các chức năng của quản lý, là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý để tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định. Quản lý đào tạo thực hiện các chức năng của quản lý bao gồm quá trình từ “Lập kế hoạch -> Tổ chức -> Lãnh đạo -> Kiểm tra”. Đồng thời quản lý đào tạo cũng vận hành theo các nguyên tắc và phương pháp quản lý.

- Quản lý đào tạo có tính chất xã hội hóa cao, nó chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, đồng thời cần huy động nhiều lực lượng xã hội tham gia vào quá trình giáo dục - đào tạo.

Quản lý đào tạo phải xuất phát từ đặc điểm của lao động sư phạm, bởi lẽ đối tượng của lao động sư phạm là con người (sinh viên) có tính tích cực chủ động và tồn tại như là chủ thể của quá trình đào tạo; công cụ lao động sư phạm là loại công cụ đặc thù, nó phụ thuộc vào trình độ khoa học và thực tế của giảng viên; trình độ nghiệp vụ sư phạm của giảng viên; phẩm chất chính trị, đạo đức của nhà giáo; phương tiện dạy học.

Các nội dung quản lý đào tạo bao gồm rất nhiều các vấn đề có liên quan chặt chẽ đến nhau, ảnh hưởng qua lại, chi phối lẫn nhau, gồm: “quản lý mục tiêu đào tạo, quản lý nội dung và chương trình đào tạo, quản lý hoạt động dạy của giảng viên và hoạt động học của sinh viên, quản lý cơ sở vật chất, tài chính phục vụ dạy học, quản lý môi trường đào tạo, quản lý các hoạt động phục vụ đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo” [1].

1.2.4. Liên kết

Từ điển Từ và Ngữ Hán việt: “liên kết là kết, buộc lại với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau”. Theo Đại từ điển Tiếng Việt (2005) thuật ngữ liên kết được định nghĩa là “kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc nhiều tổ chức riêng rẽ nhằm mục đích nào đó”. Tùy theo từng loại hình mà có các mối liên kết bên trong hoặc mối liên kết bên ngoài của một tổ chức (nhà trường, doanh nghiệp, xã hội) trong bối cảnh và môi trường kinh tế - xã hôi nhất định.

1.2.5. Liên kết đào tạo

“Liên kết đào tạo là sự hợp tác giữa các bên để tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo cấp bằng tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, nhưng không hình thành pháp nhân mới. Liên kết đào tạo là một mô hình trong giáo dục nhằm tạo cơ hội học tập cho toàn xã hội. Nhờ cách làm này, nhiều người ở vùng sâu, vùng xa; nhiều người bận làm việc, không có thời gian... cũng có cơ hội học tập lên cao. Liên kết đào tạo không phải là một hình thức mới trong ngành giáo dục và nó đang ngày càng phát triển do nhu cầu học tập của các cá nhân đang ngày càng cao. Không chỉ có liên kết đào tạo ở các ngành nghề hấp dẫn như tài chính, kế toán, ngoại ngữ, loại hình liên kết đào tạo còn mở rộng cho khối kỹ thuật, thậm chí phát triển nhanh ở cả lĩnh vực dạy nghề” [16].

Có hai loại hình LKĐT gồm: “Liên kết đào tạo trong nước và liên kết đào tạo với nước ngoài”.

Liên kết đào tạo trong nước là loại hình thức hợp tác giữa các cơ sở GDNN với nhau hoặc giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các doanh nghiệp, tổ chức khác có nhu cầu liên kết đào tạo trong nước. Thực tế cho thấy, một cơ sở giáo dục, đào tạo, một trường đại học có thể có rất nhiều cơ sở liên kết ở nhiều vùng tỉnh lẻ và vùng sâu vùng xa. Học viên khi tham gia vào các chương trình liên kết này có thể được học chương trình và nhận bằng do các trường có cơ sở liên kết đó cấp.

“Liên kết đào tạo với nước ngoài là một hình thức tiên tiến đang được đang nhiều trường áp dụng. Hình thức liên kết giáo dục này không chỉ dành cho hệ giáo dục đại học mà còn dành cho hệ giáo dục sau đại học. LKĐT nước ngoài hiện đang được tổ chức đào tạo theo các hình thức: Thứ nhất là hình thức học toàn bộ khóa học tại Việt Nam lấy bằng (hoặc chứng chỉ) của nước ngoài; Thứ hai là học tại Việt Nam và bằng do hai bên cùng cấp hoặc chương trình được chia thành hai giai đoạn: học ở Việt Nam và cả nước ngoài với thời lượng học khác nhau”[13].

Liên kết đào tạo có nhiều mục đích, nó huy động mọi tiềm năng của các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp và các đơn vị có liên quan nhằm đào tạo nguồn

nhân lực tại chỗ cho địa phương, doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội với chi phí tiết kiệm hơn, tận dụng mọi nguồn lực và ưu thế của các đơn vị.

Liên kết đào tạo đã và đang tạo ra ngày càng nhiều cơ hội học tập cho mọi người với nhiều đặc điểm về lứa tuổi, trình độ học vấn, thời gian học khác nhau trên cơ sở đảm bảo chất lượng và hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu xã hội hoá giáo dục nghề nghiệp. Nếu không có hình thức liên kết đào tạo, người học phải bỏ ra nhiều chi phí về tiền bạc, thời gian, công sức để đến những nơi xa xôi học tập. Nhất là đối với những người chịu sự giới hạn về độ tuổi, chịu áp lực và yêu cầu về công việc không cho phép thì liên kết đào tạo là loại hình học tập phù hợp cho người học lựa chọn.

Liên kết đào tạo còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội được liên doanh, liên kết với các trường cao đẳng, trường trung cấp và các cơ sở khác có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp để tổ chức đào tạo cho người lao động; tổ chức nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ.

Liên kết đào tạo không chỉ nhằm mục đích trước mắt là giải quyết nơi học, phát huy tối đa nguồn lực tại các đơn vị tham gia liên kết và đáp ứng nhu cầu nhân lực cho thị trường lao động. Liên kết đào tạo còn có một mục tiêu xa hơn, chiến lược hơn, đó là nhập khẩu công nghệ giáo dục tiên tiến, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giảng viên và góp phần hiện đại hóa nền giáo dục đại học Việt Nam. Thực tiễn hoạt động của liên kết đào tạo cho thấy rằng các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong hoạt động liên kết đào tạo có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu không hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo chất lượng đào tạo và cung cấp nhân lực đạt tiêu chuẩn quốc tế thì cũng không thể tích luỹ và thực hiện các nhiệm vụ lâu dài.

1.3. Giáo dục nghề nghiệp và mối quan hệ của trường cao đẳng nghề với các cơ sở liên kết đào tạo

1.3.1. Vị trí, vai trò của giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân

Thuật ngữ “giáo dục nghề nghiệp” chính thức được sử dụng khi Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2015. Luật mới ra đời thay thế cho Luật Dạy nghề trước đây đã hình thành được hệ thống GDNN trong hệ thống GD quốc dân. “Giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, được thực hiện theo hai hình thức là đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên” [6].

Mục tiêu chung của GDNN “nhằm đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có năng lực nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn” [6]. Đối với từng trình độ của giáo dục nghề nghiệp lại có từng mục tiêu cụ thể, “đào tạo trình độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện các công việc đơn giản của một nghề; đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm; Đào tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các công việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các công việc có tính phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người khác trong nhóm thực hiện công việc” [6].

Theo Bộ LĐ-TB&XH dự báo đến năm 2020, lực lượng lao động làm việc trong nền kinh tế gần 63 triệu người, tổng số lao động trong độ tuổi lao động là 52,8 triệu người; tổng số nhân lực qua đào tạo năm 2020 khoảng gần 44 triệu người (chiếm khoảng 70,0% trong tổng số gần 63 triệu người làm việc trong nền kinh tế). Trong tổng số nhân lực qua đào tạo, số nhân lực qua đào tạo nghề năm 2020 khoảng 34,4 triệu (bằng 78,5%); số nhân lực đào tạo qua hệ thống giáo dục - đào tạo năm 2020 khoảng 9,4 triệu (bằng 21,5%) [8].

Trong bối cảnh hiện nay, quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu sắc, bên cạnh sự hợp tác để cùng nhau phát triển thì sự cạnh tranh về mọi hoạt động giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt. Muốn nâng cao năng lực và vị thế của quốc gia, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đây chính là yếu tố quyết định đến sự thành công của Việt Nam trong thời gian tới. “Việc mở cửa thị trường lao động tạo ra sự dịch chuyển lao động giữa các nước, đòi hỏi các quốc gia phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Mặt khác, người lao động phải có năng lực cạnh tranh cao (trên cơ sở nâng cao vốn nhân lực, năng lực nghề nghiệp)” [8]. Chính vì vậy, giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh hiện nay nhằm đáp ứng với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.

1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp

Cơ sở giáo dục (nhà trường) là nơi tiến hành các quá trình giao dục có nhiệm vụ trang bị kiến thức cho một nhóm dân cư nhất định, thực hiện tối đa một quy luật tiến bộ xã hội là thế hệ đi sau phải lĩnh hội được tất cả những kinh nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền lại, đồng thời phải làm phong phú thêm những kinh nghiệm đó.

Cơ sở GDNN “gồm các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, các trường trung cấp, trường cao đẳng. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức dưới nhiều loại hình khác nhau gồm: cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” [6].

Các cơ sở GDNN khác nhau có những chức năng, nhiệm vụ cụ thể khác nhau, tuy nhiên nó đều có những chức năng, nhiệm vụ chung như sau:

- “Tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp cho NNL đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội và nâng cao trình độ cho học viên.

- Xây dựng chương trình đào tạo, kế hoạch giảng dạy trên cơ sở chương trình khung do Bộ LĐ - TB &XH đã ban hành. Tổ chức biên soạn và duyệt giáo trình của những ngành, nghề được đào tạo trên cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định do Hiệu trưởng Ban hành.

- Xây dựng kế hoạch tuyển sinh cụ thể với từng ngành nghề, bậc đào tạo, tổ chức tuyển sinh học nghề và quản lý người học.

- Tổ chức các hoạt động giảng dạy của GV và các hoạt động học tập của HS- SV; Tổ chức thi, kiểm tra, công nhận tốt nghiệp, cấp bằng, chứng chỉ nghề theo quy định của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH.

- Tổ chức tuyển dụng một cách minh bạch và công bằng; quản lý đội ngũ giáo viên, cán bộ, nhân viên của trường đủ về số lượng; phù hợp với ngành nghề, quy mô và trình độ đào tạo theo quy định của pháp luật.Quản lý về giảng viên và sinh viên để thực hiện nghiêm chỉnh mọi luật lệ hiện hành của chính quyền địa phương và Nhà nước trung ương. Quản lý và phát triển tài sản, phương tiện giảng dạy của nhà trường đúng pháp luật đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của sinh viên” [11].

1.3.3. Mối quan hệ liên kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các tổ chức, cơ quan, đơn vị khác

Theo quan điểm và kế hoạch của Bộ LĐ-TB&XH, Ban cán sự Đảng Bộ và Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp khi triển khai nhiệm vụ quản lý Nhà nước về

GDNN năm 2018 và giai đoạn 2018 - 2020 chỉ rõ mục tiêu lớn của công tác giáo dục nghề nghiệp là “góp phần có hiệu quả nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là đòi hỏi thiết tha của mỗi quốc gia, dân tộc nhất là khi cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra”. Vậy nên, trong 8 nhóm giải pháp mà Tổng cục đưa ra trong báo cáo, Bộ LĐ-TB&XH đề nghị tập trung vào 3 vấn đề có tính chất cơ bản và đột phá. Trong đó vấn đề kết nối giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động, việc làm bền vững, an sinh xã hội là một trong 3 vấn đề quan trọng nhất. Giáo dục nghề nghiệp không thể tách khỏi an sinh xã hội vì nó liên quan đến việc làm, xuất khẩu lao động, đào tạo lại cho số người yếu thế. Đề thực hiện được mục tiêu đó, tăng cường các giải pháp gắn kết với doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là một chủ thể trong quá trình đào tạo; gắn kết chặt chẽ giữa GDNN với thị trường lao động trong và ngoài nước là biện phát cốt lõi.

Mục tiêu chung của GDNN là nhằm đào tạo được NNL trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất- kinh doanh và dịch vụ vì thế giữa các cơ sở GDNN với các doanh nghiệp, các tổ chức, cơ quan và đơn vị khác luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó và tác động qua lại với nhau. Giáo dục nghề nghiệp phải đi sâu vào những yêu cầu, đòi hỏi thực tế phát triển của xã hội để xây dựng nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo và CTĐT nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, đáp ứng được nhu cầu thực tế cần, nhu cầu xã hội cần, đáp ứng được mong đợi của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Thông qua việc liên kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong xã hội để đáp ứng được yêu cầu góp phần vào đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ có chất lượng cao và tăng năng suất lao động.

Hiện nay, trong xu thế công nghiệp hóa - hiện đại hóa, doanh nghiệp trên địa bàn đã chú trọng hơn việc thực hiện đào tạo cùng với nhà trường. Một khi “sản phẩm” đào tạo có trách nhiệm của doanh nghiệp thì chính người sử dụng lao động sẽ không còn phải lo lắng khi tìm kiếm nguồn nhân lực có chất lượng và tốn thêm nhiều chi phí đào tạo lại cho lao động khi vào doanh nghiệp vì chất lượng NNL đã có quá trình gắn với thực tiễn sản xuất. Đồng thời, từ quá trình hợp tác đào tạo này, doanh nghiệp sẽ có lợi thế hơn trong việc lựa chọn.

Nhìn chung hoạt động liên kết đào tạo giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp có thể mô tả chung như sau: “Nhà trường đào tạo các kiến thức cơ bản. Doanh nghiệp đảm trách phần tổ chức thực hành, thực tế tại đơn vị sản xuất và xác nhận chất lượng, thời gian đào tạo thực tiễn của học sinh, sinh viên. Xác nhận của doanh nghiệp được công nhận thay thế cho một học phần thực hành của nhà trường” [18].

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 18/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí