bộ môn, thiết bị thí nghiệm và thiết bị kỹ thuật, các phương tiện nghe - nhìn như máy chiếu, máy tính kết nối internet, internet…). Trong đó, hệ thống thiết bị dạy học được sử dụng thường xuyên và trực tiếp tham gia và quá trình giảng dạy và học tập sẽ gắn liền với nội dung và phương pháp giảng dạy. Số lượng và chất lượng của cơ sở vật chất, thiết bị dạy học sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của học viên. Nhờ có các trang bị về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học hiện đại, một lượng lớn thông tin trong bài học có thể được hình ảnh hóa, mô hình hóa, trực quan hóa một cách sinh động góp phần đem đến cho người học một điều kiện về không gian mở, thu hút học viên tham gia học tập chủ động - tích cực.
Với phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay, thời gian và nội dung học của học viên theo xu hướng linh hoạt về việc đăng ký khối lượng học tập và thời gian tham gia trên lớp, điều này kéo theo những đòi hỏi về không gian học, nó không còn cố định và ổn định như đào tạo theo niên chế, theo kỳ học. Nội dung giảng dạy của giảng viên vì thế cũng chú trọng hơn nhiều theo phương pháp học viên phải tự nghiên cứu các vấn đề, giảng viên chỉ mang tính chất định hướng và hướng dẫn nên những đòi hỏi về tính đa dạng và đầy đủ của tài liệu tra cứu, tham khảo và những yêu cầu ngày càng cao về các công cụ hỗ trợ, đặc biệt là phương tiện nghe nhìn và mạng internet phải đáp ứng. Ngoài giờ học trên lớp, học viên phải chủ động làm các bài tập nhóm, các chuyên đề theo từng câu hỏi và nội dung học tập vì vậy hệ thống không gian thư viện của nhà trường vừa là nơi học viên đến tham khảo, tìm kiếm các nguồn sách, báo và các ấn phẩm giáo dục vừa phải đóng vai trò là “trung tâm thông tin tư liệu với các dịch vụ thông tin, các phòng đọc mở, các phòng học độc lập để sinh viên có thể học tập và làm việc theo nhóm…”
Ngoài ra, hệ thống sân vận động, ký túc xá của Nhà trường là nơi thư giãn của GV và học viên sau những giờ học tập và rèn luyện sức khỏe cho học viên. Đầu tư hệ thống sân vận động của nhà trường sẽ góp phần nâng cao thể lực cho học viên, đây là một trong những yếu tố đánh giá chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng hoạt động đào tạo của nhà trường.
Ngày này, với những ứng dụng của công nghệ thông tin vào mọi hoạt động từ đời sống đến hoạt động đào tạo sẽ kết nối thông tin mọi nơi trên trái đất. Chính vì vậy, nhà trường cần tập trung huy động mọi nguồn lực có thể đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường ngày càng đầy đủ và hiện đại, là cơ sở để xây dựng nôi dung đào tạo theo hướng tăng thời lượng thực hành, thực tập, giảm thời lượng giảng dạy lý thuyết cho học viên.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý liên kết đào tạo
1.5.1. Nhận thức của người dân về vấn đề học nghề
Nhận thức của người dân về giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nghề chịu sự tác động lớn của các đối tượng: Phụ huynh học sinh, học sinh - thanh niên và các cơ quan chức năng (Nhà trường THCS, THPT và cơ quan nhà nước).
Quan niệm cho rằng chỉ có bằng đại học mới có thể tìm được việc làm có lương cao, ổn định, ảnh hưởng lớn đến công tác tuyển sinh, công tác GDNN. Đồng thời dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, không tận dụng được tiềm lực của toàn bộ nguồn nhân lực, phục vụ phát triển quê hương, đất nước. Bên cạnh nhận thức về học nghề của người lao động chưa cao, quan niệm của các bậc phụ huynh học sinh vẫn nặng về bằng cấp, bằng mọi giá phải cho con em mình thi đậu vào các trường cao đẳng, đại học. Quan niệm xem trọng bằng cấp có nguồn gốc từ trong xã hội mà nền kinh tế tự cung tự cấp, phần lớn người LĐ tham gia làm việc ở khu vực nông thôn, công nghiệp - thương mại - dịch vụ ít được chú trọng. Người học với mục đích giúp ích cho đất nước, mang về danh tiếng cho làng quê, nơi đã nuôi dưỡng họ trưởng thành. Người có học trong xã hội nông nghiệp rất được coi trọng vì họ nằm trong số rất ít người ở quê được “học cái chữ cái nghĩa”. Do vậy khi xếp tầng lớp trong xã hội thì sỹ phu được đứng hàng đầu, sau đó đến nông dân, công nhân, tầng lớp thương nhân xếp ở vị trí cuối cùng.
Đến nay, quan niệm cho rằng trình độ học vấn càng cao khả năng tìm việc làm ổn định vẫn còn ăn sâu vào trong nếp nghĩ của đông đảo phụ huynh, tác động trực tiếp đến nhận thức và thái độ hướng nghiệp của học sinh về tầm quan trọng của bằng cấp, nhiều khi không nhìn thấy được giá trị của việc học nghề. Khi quy mô tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp còn chiếm tới 90% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông và chỉ khoảng 10% học sinh học nghề. Số đỗ chính thức vào các trường đại học khoảng 60%, nhưng số còn lại sẽ tiếp tục vào các trường tư thực hoặc cao đẳng, khi đó gần như không còn lượng học sinh tham gia học nghề.
Về phía các cơ quan chức năng và một bộ phận xã hội vẫn chưa có nhận thức đúng và đầy đủ về tầm quan trọng của GDNN trong sự phát triển kinh tế - xã hội và trong bối cảnh cạnh tranh hội nhập quốc tế hiện nay. Công tác tư vấn nghề nghiệp và hướng nghiệp cho học sinh tại các trường THCS, THPT còn yếu, chưa thuyết phục, chưa làm cho xã hội, nhất là học sinh phổ thông, thanh niên và phụ huynh học sinh hiểu đúng và lựa chọn học nghề phù hợp với khả năng, điều kiện của bản thân, gia đình. Thêm vào đó, hoạt động hướng nghiệp của các trường Trung học phổ
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường Cao đẳng nghề dân tộc nội trú Bắc Kạn - 2
- Giáo Dục Nghề Nghiệp Và Mối Quan Hệ Của Trường Cao Đẳng Nghề Với Các Cơ Sở Liên Kết Đào Tạo
- Nội Dung Liên Kết Đào Tạo Và Quản Lý Liên Kết Đào Tạo
- Giới Thiệu Khái Quát Về Trường Cao Đẳng Nghề Dtnt Bắc Kạn
- Thực Trạng Quản Lý Liên Kết Đào Tạo Tại Trường Cao Đẳng Nghề Dtnt Bắc Kạn
- Thực Trạng Quản Lý Hoạt Động Liên Kết Đào Tạo Trong Hoạt Động Giảng Dạy Của Giáo Viên
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
thông đa phần đều tập trung vào các trường ĐH nên lựa chọn học nghề có thể coi là lựa chọn cuối cùng khi không thể vào ĐH được.
Để thay đổi được nhận thức là một việc làm lâu dài, không thể một sớm một chiều, một khi đã thay đổi sẽ tác động đến hiệu quả của công tác đào tạo nghề cho người lao động. Năm 2017 là năm cột mốc quan trọng của hệ thống GDNN khi Chính phủ chính thức giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực GDNN cho Bộ LĐ-TB&XH (trừ các ngành và trường trung cấp và cao đẳng sư phạm) và cũng trong năm 2017, hệ thống cơ sở GDNN chính thức tuyển sinh và hoạt động theo Luật Giáo dục nghề nghiệp. Từ đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tăng tính tự chủ hơn trong hoạt động về tài chính và tuyển sinh, đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn tuyển sinh, hoạt động tư vấn hướng nghiệp,.. đã và sẽ có những chuyển biến tích cực trong nhận thức của học sinh, phụ huynh học sinh và toàn xã hội.
Với cơ cấu NNL vừa thiếu vừa mất cân đối như hiện nay, cũng như những yêu cầu ngày càng cao của nhu cầu xã hội và toàn cầu hóa, không còn phương án giải quyết nào khác là Việt Nam cần phải tập trung đào tạo đội ngũ LĐ kỹ thuật có tay nghề tốt, có kỹ năng và phẩm chất tốt. Nhận thức của toàn xã hội phải thay đổi, tâm lý xã hội và tư duy khoa cử, chuộng bằng cấp vốn ăn sâu vào tư duy, nhận thức của con người, là nguyên nhân dẫn đến lệch lạc trong nhận thức về học nghề, giáo dục nghề nghiệp sẽ dần dần thay đổi. Quan niệm học nghề không có tương lai sẽ thay đổi khi mà việc tuyển dụng vào các cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp thay đổi. Chất lượng tại các cơ sở GDNN đã ngày càng được khẳng định thông qua việc Việt Nam 3 lần đạt giải nhất toàn đoàn trong cuộc thi tay nghề ASEAN, học sinh sinh viên Việt Nam giành nhiều huy chương, chứng chỉ xuất sắc tại nhiều cuộc thi tay nghề khu vực ASEAN và thế giới, chất lượng dạy nghề đã từng bước tiếp cận với trình độc của khu vực và quốc tế. Năm 2017 tại cuộc thi tay nghề thế giới tại Abu Dhabi thuộc các tiểu ương quốc Ả Rập xê Út, Đoàn Việt Nam đã chính thức đạt 1 HCĐ và 5 chứng chỉ xuất sắc. Đồng thời, với kỹ năng nghề nghiệp của HS,SV tốt nghiệp tại các cơ sở GDNN nâng lên, họ đã tham gia vào hầu hét các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đảm nhiệm những vị trí quan trọng, phức tạp mà giai đoạn trước phải do các cố vấn, “chuyên gia nước ngoài” thực hiện như lĩnh vực viễn thông, dầu khi, cầu đường… Theo báo cáo tổng kết của các cơ sở giáo dục và thống kê của Bộ LĐ-TB&XH “khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tỷ lệ này đạt trên 90%, đặc biệt có ngành, nghề
đạt tỷ lệ 100%... đã là những minh chứng rõ ràng nhất góp phần thay đổi nhận thức của xã hội về vấn đề giáo dục nghề nghiệp”[9].
1.5.2. Cơ cấu và sự phát triển của nền kinh tế
“Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Điều này đòi hỏi cần phải đào tạo nghề cho người lao động đang hoạt động trong những lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp sang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp - thương mại - dịch vụ, v.v”. Thực tế đã cho thấy, khi nền kinh tế nước ta trong thời kỳ khủng hoảng (thập kỷ 80 của thế kỷ XX), nhu cầu về công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ cũng giảm theo, đồng thời làm cho hệ thống các cơ sở giáo dục nghề nghiệp suy giảm. Tuy nhiên, khi nền kinh tế dần phục hồi, thì nhu cầu nhân lực về công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ tăng cả về số lượng, chất lượng, từ đó, làm cho công tác đào tạo nghề, dạy nghề cũng phát triển theo.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và toàn cầu của nền kinh tế quốc tế, nhiều vấn đề nảy sinh cần có cách nhìn nhận xác định đúng đắn đâu là vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết và nếu giải quyết rốt ráo sẽ mang lại chuỗi giá trị cho xã hội. Đối với Việt Nam, là một nước nằm trong khu vực các quốc gia đang phát triển mạnh, tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu ngành kinh tế, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế quốc gia. Do vậy, đào tạo nghề manh che nang nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp là việc làm có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển chung nền kinh tế ở hiện tại và tương lai. Đến lượt mình, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tác động trở lại đối với công tác đào tạo nghề theo hai hướng, một mặt thúc đẩy đào tạo nghề phát triển cũng như thúc đẩy nền kinh tế phát triển nếu như có sự phù hợp giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và công tác đào tạo nghề, mặt khác sẽ kìm hãm việc đào tạo nghề nếu như không phù hợp hoặc phát triển không tương ứng với nhu cầu thực tế đang đòi hỏi.
Để có thể cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, thì chất lượng nguồn lao động phải ngày càng nâng cao. Chính vì vậy, chất lượng GDNN cũng phải được nâng cao phát triển hơn nữa để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong tiến trình phát triển. Toàn cầu hoá - cơ hội và thách thức cho toàn bộ các quốc gia, từ phát triển hay đang phát triển cho đến chưa phát triển. Như chúng ta đã thấy, hội nhập kinh tế toàn cầu là cơ hội lớn về xuất khẩu lao động nước ngoài, thu hút vốn đầu tư của các nước phát triển, tiếp thu trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến… Đối với cơ hội xuất khẩu lao động nước ngoài làm việc, là giải pháp cấp thiết trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, tạo cơ hội tăng thu nhập cá nhân và tỷ
giá hối đoái về cho quốc gia. Người lao động có được cơ hội học hỏi nâng cao tay nghề, trình độ hiểu biết, hình thành lối văn hoá ứng xử theo hướng công nghiệp. Sự tiếp thu nhanh chóng văn hoá sẽ đẩy nhanh quá trình hội nhập toàn cầu của người lao động nói riêng và của quốc gia, dân tộc nói chung. Đối với cơ hội thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cũng là cách hữu hiệu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh trong nước nhằm thu hút sự đầu tư ngày một tăng. Các tập đoàn xuyên quốc gia luôn hướng tới việc đầu tư cho các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới, mang lại lợi ích cho cả đôi bên. Nguồn vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, có rất nhiều loại, chẳng hạn như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp.
1.5.3. Phương thức, cơ chế liên kết và lợi ích của các đơn vị tham gia liên kết
Trong bất cứ hoạt động liên kết hợp tác nào, trong lĩnh vực gì cũng cần phải xác định rõ phương thức hợp tác, cơ chế hợp tác và thể hiện minh bạch lợi ích của các bên tham gia trong quá trình liên kết, hợp tác với nhau. Đồng thời, trong hoạt động liên kết, yếu tố quyết định sự thành công của quá trình là các bên phải cùng có lợi ích (Win-Win). Nếu mỗi bên theo đuổi những lợi ích và mục tiêu riêng mà không tính đến lợi ích thỏa đáng của bên kia thì rất khó có thể liên kết được với nhau. Vì thế để thành công, các bên phải nhìn nhận rõ ràng và có cách ứng xử theo nguyên tắc cùng có lợi.
Liên kết đào tạo nói chung và liên kết đào tạo nghề nói riêng không còn quá mới mẻ ở nước ta, do đó các bên đều có những hiểu biết lẫn nhau, kinh nghiệm tiếp thu từ thực tiễn hoặc lý thuyết để thực hiện theo nguyên tắc cùng có lợi. Liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các trường đại học, cao đẳng; giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với nhau; giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp với các doanh nghiệp. Mỗi đơn vị liên kết khác nhau sẽ có những phương thức và cơ chế liên kết khác nhau. Các doanh nghiệp là các tổ chức hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nên họ quan tâm nhiều đến những chi phí bỏ ra và lợi ích đạt được từ liên kết.
Trong quan hệ liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp phải tuân thủ đúng quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia liên kết đào tạo, quy định rõ cơ chế hoạt động, thống nhất mức thu lệ phí tuyển sinh và học phí theo quy định, đồng thời thỏa thuận cụ thể hợp đồng thực hiện liên kết đào tạo. Các đơn vị cũng phải quy định rõ hình thức liên kết đào tạo theo hình thức phối hợp đào tạo hay đặt lớp đào tạo, sinh viên sẽ thực tập tại cơ sở chủ trì đào tạo hay cơ sở phối hợp đào tao/cơ sở giáo dục đặt lớp đào tạo… Khi các bên trong hoạt động liên kết đào tạo thống nhất được về
cơ chế liên kết đào tạo và hài hòa lợi ích của các bên thì hoạt động liên kết sẽ đảm bảo lâu dài, bền vững và đạt được chất lượng tốt nhất. Lợi ích mà các cơ sở giáo dục chủ trì đào tạo (trường đại học, cao đẳng) đạt được trong liên kết đào tạo giáo dục nghề nghiệp là việc sử dụng được tối đa nguồn lực giảng viên, trang thiết bị giảng dạy, tối ưu chi phí đồng thời tăng phạm vi tuyển sinh khi có thể liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; tăng hiệu quả hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, đạt được những mục tiêu, sứ mệnh do nhà trường đề ra. Đối với các cơ sở GDNN cũng tận dụng được nguồn lực từ các trường cả về nội dung bài giảng, đội ngũ giảng viên và công tác quản lý giáo dục, hoạt động tuyển sinh… đồng thời vẫn thực hiện được những mục tiêu và nhiệm vụ của chính cơ sở giáo dục nghề nghiệp đó. Đối với những cơ sở GDNN ở nơi có điều kiện khó khăn chưa có đủ nguồn lực để đáp ứng công tác giảng - dạy thì thông qua hoạt động liên kết đào tạo có thể sử dụng nguồn lực trang thiết bị, dụng cụ học tập và giảng dạy từ cơ sở chủ trì đào tạo.
Lợi ích lớn nhất mang lại khi thực hiện liên kết giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp là doanh nghiệp sẽ có NNL phù hợp với nhu cầu phát triển và đòi hỏi công việc của doanh nghiệp. Thay vì phải tìm kiếm lao động trên thị trường tự do, tốn kém chi phí quảng cáo tuyển dụng, mất thêm thời gian và chi phí để đào tạo lại thì các doanh nghiệp đã có NNL tại các cơ sở GDNN phù hợp với đặc điểm sản xuất và công nghệ của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng tiếp vận được với những giải pháp thực tế và hiệu quả để phát triển doanh nghiệp, để giải quyết những hoạt động kém hiệu quả và những phát minh, sáng chế mới, những dịch vụ tư vấn từ nhà trường.
Về phía cơ sở giáo dục nghề nghiệp, lợi ích lớn nhất mang lại là đầu ra cho sản phẩm đào tạo. Với những “đặt hàng” từ doanh nghiệp, nhà trường đã có nguồn đầu ra việc làm phù hợp cho học sinh, sinh viên; nắm bắt được yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ, phẩm chất nghề nghiệp và quy mô/số lượng đào tạo. Các thông tin này có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thiết kế nội dung chương trình học và tuyển chọn, phát triển đội ngũ giảng viên. Thông qua hoạt động liên kết đào tạo, cơ sở GDNN cũng có thêm nguồn kinh phí dồi dào cho hoạt động, tăng cường trang bị cơ sở vật chất, nâng cao thương hiệu và thế mạnh, thu hút lượng đầu vào chất lượng cao và cả nguồn tài trợ ngược lại từ những cựu sinh viên thành đạt sau khi ra trường. Đồng thời, khi tham gia LKĐT với các doanh nghiệp, nhà trường sẽ không phải tăng thêm chi phí đầu tư cho việc mua sắm trang bị thực hành, người
học cũng có khả năng tiếp cận thực tiễn và tiếp thu bài học nhanh hơn vì được học và thực hành trực tiếp tại các doanh nghiệp.
Khi lợi ích của các bên tham gia LKĐT được đảm bảo sẽ là động lực và là nhân tố quan trọng nhất quyết định việc mở rộng liên kết đào tạo trong những năm tiếp theo, trong các ngành nghề tiếp theo. Nếu thực hiện LKĐT mà không đảm bảo tuân thủ các cơ chế đã cam kết cũng như không thỏa mãn lợi ích của các bên tham gia liên kết sẽ là một rào cản ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động liên kết đào tạo cũng như quyết định việc tổ chức hoạt động liên kết đào tạo trong thời gian tiếp theo.
Kết luận chương 1
Liên kết đào tạo là “sự hợp tác giữa các bên để tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, là một mô hình trong giáo dục nhằm tạo ra nhiều cơ hội học tập cho toàn xã hội, cho những người ở vùng sâu, vùng xa, những người không có nhiều thời gian học tập vẫn có cơ hội được tham gia đào tạo, học tập lên cao hơn. Đây không phải là một hình thức mới của ngành giáo dục và nó ngày càng thể hiện vai trò quan trọng đối với sự phát triển của giáo dục. Ngày nay, liên kết đào tạo không chỉ bó hẹp ở các ngành nghề như tài chính, kế toán, ngoại ngữ, tin học mà nó đã mở rộng ra các khối kỹ thuật, lâm nghiệp, nông nghiệp. Liên kết đào tạo đã phát triển nhanh ở cả lĩnh vực dạy nghề”.
Liên kết đào tạo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp góp phần phân luồng học sinh sau THCS và trung học phổ thông theo luật giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay. Liên kết đào tạo góp phần nâng cao dân trí đặc biệt là những vùng xa trung tâm tỉnh, huyện, những vùng có điều kiện kinh tế - xã hôi khó khăn, nhằm giảm sự bất bình đẳng xã hội trong giáo dục.
Quản lý hoạt động LKĐT là quá tình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý thông qua việc vận dụng chức năng và phương tiện quả lý nhằm đạt được mục tiêu đào tạo của nhà trường. Nội dung của quản lý liên kết đào tạo gồm các nội dung chính: “quản lý mục tiêu đào tạo, quản lý nội dung và chương trình đào tạo, quản lý hoạt động dạy của giảng viên; quản lý hoạt động học của sinh viên, quản lý cơ sở vật chất, tài chính phục vụ dạy học”
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý liên kết đào tạo như: nhận thức của người dân về vấn đề học nghề, cơ cấu và sự phát triển của nền kinh tế, phương thức, cơ chế liên kết và lợi ích của các bên, các đơn vị tham gia vào hoạt động liên kết.
Hiện nay, tại các cơ sở GDNN, hình thức LKĐT ngày càng tăng. Mặc dù còn nhiêu hạn chế về chất lượng tuyển sinh đầu vào, chất lượng giảng viên, cơ chế đào tạo, sự phối hợp và linh hoạt trong quá trình đào tạo đòi hỏi phải có những biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được nguồn nhân lực đã qua đào tạo cần thiết cho xã hội. Vì vậy, việc có những biện pháp quản lý LKĐT một cách khoa học giữa đơn vị chủ trì đào tạo và các đơn vị phối hợp đào tạo là thiết thực, mang lại hiệu quả đào tạo ngày càng cao, thực hiện chủ trương lớn của Đảng là xây dựng một xã hội hóa học tập, thúc đẩy sự nghiệp xã hội hóa giáo dục.