Khái Niệm Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Thể Chất Cho Sinh Viên Ở Các Trường Đại Học Theo Tiếp Cận Đảm Bảo Chất Lượng


Đôi khi chỉ báo hành vi còn được gọi là “chỉ số quản lý”. Chỉ báo hành vi là một tập hợp các thông tin cụ thể và đáng tin cậy, được đo đếm chính xác, được thiết kế nhằm phục vụ cho mục đích giải trình với các cơ quan bên ngoài về tình trạng của nhà trường và những kết quả đã đạt được. Các chỉ báo hành vi thường bao gồm các dữ liệu về việc nhập học và tốt nghiệp của sinh viên, các công trình nghiên cứu khoa học, tình trạng việc làm của người mới tốt nghiệp, tiền học phí, tỷ lệ sinh viên/giảng viên, khối lượng công việc của giảng viên, các công việc có liên quan đến sinh viên, số lượng sinh viên trong lớp học, phòng thí nghiệm và các trang thiết bị, thư viện, công nghệ thông tin, các nguồn lực hiện có liên quan đến việc học tập của sinh viên.

Nhằm tạo điều kiện cho việc thống nhất các định nghĩa và khái niệm dùng trong ĐBCL giáo dục đại học và trong nghiên cứu khoa học giáo dục tại Việt Nam, chúng tôi xin đề xuất một số định nghĩa sau đây:

Chất lượng là sự đáp ứng của sản phẩm đào tạo đối với các chuẩn mực và tiêu chí đã được xác định.

Tiêu chuẩn là khái niệm dùng để biểu thị những đặc tính, phẩm chất của chất lượng mà chúng ta muốn đạt được. Trong giáo dục, tiêu chuẩn là những đòi hỏi mà một nền giáo dục hay một trường học mong muốn người học phải đạt được khi tốt nghiệp.

Tiêu chí thực hiện là sự cụ thể hóa của chuẩn mực, chỉ ra những căn cứ để đánh giá chất lượng. Tiêu chí có thể đo được thông qua các chỉ báo hành vi.

Chỉ báo hành vi được mô tả cụ thể mức độ chất lượng đạt được bằng điểm số trong mỗi tiêu chí thực hiện, có thể được đánh giá theo thang phân loại (Thường từ 3 đến 7 bậc).

Trên cơ sở xác định các khái niệm thành phần (Chất lượng, Tiêu chuẩn, Tiêu chí thực hiện Chỉ báo hành vi), chúng tôi đưa ra khái niệm Đảm bảo chất lượng: Đảm bảo chất lượng là toàn bộ hoạt động có hệ thống và kế hoạch


chặt chẽ, được tiến hành trong hệ thống chất lượng theo đ ng tiêu chuẩn quy định, tiêu chí thực hiện và chỉ báo hành vi được chứng minh cụ thể để tạo sự tin tưởng việc đáp ứng các yêu cầu về chất lượng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 198 trang tài liệu này.

Như vậy, ĐBCL giáo dục ở trường đại học là hệ thống những tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm xây dựng và thực thi quy trình và chuẩn mực chất lượng và giáo dục, với các nội dung cụ thể sau: (i) Thực hiện văn hóa chất lượng trong toàn bộ hoạt động đào tạo; (ii) Triển khai thực hiện cơ chế và quy trình xét duyệt, định kỳ rà soát chương trình đào tạo và văn bằng, chứng chỉ của nhà trường; (iii) Đánh giá người học theo quy trình và chuẩn mực rõ ràng và nhất quán; (iv) Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và trách nhiệm của từng giảng viên trong thực hiện chuẩn mực chất lượng ; (v) Đảm bảo giáo trình, tài liệu tương ứng với chương trình đào tạo; (vi) Đảm bảo bổ sung, cập nhật các tri thức khoa học và thông tin cần thiết cho hoạt động và giáo dục.

Cho đến nay, trên thế giới và ở Việt Nam có khá nhiều mô hình quản lý chất lượng đã được áp dụng vào ĐBCL đào tạo ở trường đại học. Có thể kể đến một số mô hình tiêu biêu: (i) Mô hình ISO 9000 (Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 do Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ban hành); (ii) Mô hình EFQM (Mô hình quản lý chất lượng châu Âu); (iii) Mô hình SEAMEO (Tổ chức Bộ trưởng Giáo dục các nước Đông Nam Á); (iv) Mô hình quản lý chất lượng tổng thể (Total Quality Management- TQM); (v) Mô hình CIPO (UNESCO, 2000)

Quản lý hoạt động giáo dục thể chất cho sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội theo tiếp cận đảm bảo chất lượng - 8

Quá trình áp dụng một hoặc một số mô hình quản lý chất lượng vào tổ chức, chỉ đạo, điều hành hoạt động và giáo dục đại học được coi là tiếp cận đảm bảo chất lượng trong quản lý giáo dục đại học. Nói cách khác, tiếp cận ĐBCL trong quản lý giáo dục đại học là dựa vào các yếu tố, nguyên tắc ĐBCL được nêu ra trong mô hình quản lý chất lượng, bộ máy quản lý xác lập và tổ chức thực hiện hệ thống quy trình, chuẩn mực duy trì và nâng cao chất lượng hoạt


động và giáo dục, trên cơ sở đó làm cho sản phẩm đào tạo của nhà trường đáp ứng đòi hỏi của hoạt động thực ti n theo ngành nghề được đào tạo.

Tiếp cận ĐBCL trong giáo dục đại học đòi hỏi chủ thể quản lý phải biết lựa chọn mô hình quản lý chất lượng phù hợp để đề ra quy trình và chuẩn mực chất lượng của hoạt động và giáo dục, từ đó sử dụng các chức năng quản lý để tổ chức, chỉ đạo, điều hành đối tượng quản lý tuân thủ quy trình, chuẩn mực đó trong quá trình đào tạo. Với ý nghĩa đó, mọi hoạt động , giáo dục sẽ đảm bảo đúng ngay từ đầu và không mắc lỗi ở các bước tiến hành, nêu cao được trách nhiệm của mọi lực lượng tham gia vào quá trình đào tạo. Tính thiết thực của quản lý giáo dục ở trường đại học theo tiếp cận ĐBCL thể hiện ở chỗ thỏa mãn được nhu cầu phát triển của cá nhân sinh viên, đồng thời đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội.

Trong bối cảnh (Context) quản lý hoạt động một môn học ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng, chủ thể quản lý có thể áp dụng mô hình CIPO (UNESCO, 2000) để xác định những nội dung quản lý phù hợp. Theo đó, các chủ thể quản lý phải tính đến các yếu tố: (i) Đầu vào (Input) bao gồm: người học, người dạy, điều kiện học tập, rèn luyện. (ii) Quá trình (Process) bao gồm: cấu trúc chương trình, kế hoạch , nội dung, phương pháp, hình thức , hệ thống đánh giá. (iii) Kết quả/đầu ra (Output) bao gồm: kết quả học tập của sinh viên, sự thỏa mãn nhu cầu của sinh viên, sự đáp ứng của nhà trường đối với nhu cầu xã hội.

2.2.2. Khái niệm quản lý hoạt động giáo dục thể chất cho sinh viên ở các trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng

Quản lý là một chức năng lao động - xã hội, được bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động. Quản lý là hoạt động chỉ đạo nhằm thực hiện mục đích của chủ thể quản lý. Quản lý là một khái niệm rộng, trong các lĩnh vực khác nhau, thì quan niệm về quản lý cũng khác nhau. Các quan niệm này phụ


thuộc vào mục đích đạt được trên các lĩnh vực đó. Cho nên, khi đưa ra các định nghĩa về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại hình quản lý cụ thể.

Trần Kiểm (2006) [36] cho rằng, quản lý giáo dục là những “tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực và tâm lực trẻ em”.

Theo Đặng Đức Thắng (2008) [48], “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều chỉnh, giám sát và kiểm tra một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”.

Quản lý hoạt động GDTC cho sinh viên ở trường đại học là trách nhiệm của các chủ thể quản lý nhằm xây dựng, triển khai kế hoạch; thiết lập cơ cấu tổ chức; điều hành, phối hợp hoạt động của các bộ phận, các thành viên thuộc quyền; kiểm tra, giám sát và chấn chỉnh các mặt công tác theo phạm vi quyền hạn được giao, đảm bảo thực hiện được mục tiêu, nội dung, chương trình….

Thống nhất với quan niệm nói trên, tác giả luận án làm rõ nội hàm Quản lý giáo dục thể chấtQuản lý giáo dục thể chất ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng:

* Quản lý giáo dục thể chất ở trường đại học là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục thể chất để trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ tích cực đối với người học đáp ứng yêu cầu về thể lực trong hoạt động học tập và thực ti n nghề nghiệp.


* Quản lý giáo dục thể chất ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý theo một mô hình quản lý chất lượng nhất định với những chuẩn mực chất lượng tác động vào quá trình giáo dục thể chất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục thể chất trong trường học.

Như vậy, khái niệm “Quản lý giáo dục thể chất ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng” được xây dựng trên cơ sở khái niệm “Quản lý giáo dục thể chất ở trường đại học”. Trong đó, khái niệm Quản lý giáo dục thể chất ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng chỉ rõ sự tác động của chủ thể quản lý đến các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động này để triển khai thực hiện theo một quy trình, chuẩn mực duy trì và nâng cao chất lượng của các yếu tố cấu thành hoạt động GDTC. Theo đó, mục tiêu, kế hoạch phải được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn; thực hiện chế độ trách nhiệm trong tổ chức hoạt động GDTC; thực hiện quy trình đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động GDTC; kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động GDTC của người học so với mục tiêu đặt ra.

Ở trường đại học, chủ thể quản lý hoạt động GDTC là toàn bộ bộ máy quản lý (Bao gồm Ban Giám hiệu, các phòng chức năng, các khoa/bộ môn GDTC). Khách thể quản lý hoạt động GDTC là các yếu tố cấu thành quá trình môn GDTC (mục tiêu; nội dung; phương pháp; hình thức tổ chức ; người dạy và hoạt động dạy; người học và hoạt động học; cơ sở vật chất - kỹ thuật; kết quả học tập của người học).

Để đạt được mục tiêu GDTC, bộ máy quản lý phải thực hiện tốt những nội dung chính của quản lý hoạt động GDTC cho sinh viên ở trường đại học: Xác lập và tổ chức thực hiện mục tiêu, chương trình; xây dựng kế hoạch; tích cực hóa hoạt động của giảng viên, sinh viên; đảm bảo cơ sở vật chất; xây dựng phong trào TDTT; tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục thể chất và kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên.


2.2.3. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục thể chất cho sinh viên ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng

Trên cơ sở tích hợp các yếu tố của mô hình lý thuyết CIPO và các chức năng quản lý, chúng tôi xác định các nội dung quản lý hoạt động giáo dục thể chất cho sinh viên ở trường đại học theo tiếp cận đảm bảo chất lượng như sau:

2.2.3.1. Các yếu tố thuộc về bối cảnh (Context)

* Văn bản chính sách quản lý nhà nước về hoạt động giáo dục thể chất ở trường đại học

Ở nước ta, đã có nhiều chủ trương, giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát triển hệ thống giáo dục và đổi mới công tác giáo dục thể chất, thể thao trường học…Điều đó, được thể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, Nghị định của Chính phủ, Luật giáo dục, Quyết định của Bộ GD&ĐT về Quy chế GDTC trong trường học và những văn bản chỉ đạo khác về quy chế giáo dục đại học, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục; chu kỳ và quy trình kiểm định chất lượng, chương trình giáo dục; tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo ở các trường đại học...

Tuy nhiên, một số văn bản quy định về tổ chức, hoạt động GDTC và thể thao trường học vẫn còn mang tính khái quát, chưa cụ thể dẫn đến việc vận dụng thiếu thống nhất và thiếu đồng bộ ở một số trường. Chẳng hạn, theo Thông tư 25/2015/TT-BGDĐT của Bộ GD&ĐT, ngày 14 tháng 10 năm 2015 [5], đã quy định môn học Giáo dục thể chất thuộc các chương trình đào tạo trình độ đại học tối thiểu là 3 tín chỉ. Tuy nhiên, thực tế các trường đại học có thể vận dụng từ 3 - 5 tín chỉ, khiến cho nội dung chương trình cũng như tổ chức giảng dạy môn học GDTC ở các trường rất khác nhau.

* Điều kiện môi trường giáo dục

Môi trường giáo dục bao gồm tổ hợp yếu tố có tác động đến quá trình học tập, rèn luyện của người học: (i) Cơ sở vật chất là các vật chất trong


không gian diễn ra quá trình học tập (đồ dùng phương tiện học tập, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí...); (ii) Yếu tố tinh thần là mối quan hệ giữa người dạy - người học, giữa người học – người học, giữa nhà trường - gia đình - xã hội; (iii) Các yếu tố tâm lí (động cơ, nhu cầu, hứng thú, tính tích cực học tập rèn luyện của người học và phong cách, phương pháp giảng dạy của người dạy…). Các yếu tố này của môi trường giáo dục có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến chất lượng đào tạo. Trong điều kiện môi trường học tập thuận lợi, người học có một tâm lý thoải mái vui vẻ, tạo nhiều hứng thú cho học tập.

* Kinh tế thị trường đối với giáo dục

Ngày nay, trước tác động của cơ chế thị trường, thì yếu tố kinh tế thị trường có những tác động nhiều mặt đến giáo dục: (i) Chi phối việc hình thành mục tiêu giáo dục: Các mục tiêu này gắn với yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành, phát triển nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức; (ii) Hình thành các giá trị xã hội, giá trị văn hoá, giá trị con người thích ứng với đòi hỏi phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng; (iii) Hình thành nội dung, chương trình và phương thức giáo dục phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển và thay đổi nhanh của nền kinh tế thị trường; (iv) Gắn giáo dục với nhu cầu phát triển mọi mặt của xã hội, với cơ cấu và sự chuyển dịch của thị trường nhân lực quốc gia và quốc tế, nhất là thị trường nhân lực trình độ cao; (v) Hình thành thị trường dịch vụ giáo dục - đào tạo, tạo nên sự cạnh tranh trong giáo dục; quốc tế hóa quá trình giáo dục, nhất là giáo dục đại học, hình thành các chuẩn, các tiêu chí giáo dục quốc tế và khu vực; (vi) Thay đổi vai trò của Nhà nước và vai trò của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục, thay đổi cơ chế phát triển giáo dục, thay đổi vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục.


Xét cho cùng, các yếu tố và các quá trình của giáo dục đại học đều vận hành trong điều kiện kinh tế thị trường. Yếu tố kinh tế thị trường tác động một cách khách quan, toàn diện lên tất cả các yếu tố khác, với những mức độ khác nhau, có thể mang lại những mặt tích cực và những mặt tiêu cực. Điều đó khiến cho có sự khác biệt đáng kể về giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường với giáo dục trong nền kinh tế bao cấp.

2.2.3.2. Quản lý các yếu tố “đầu vào” hoạt động giáo dục thể chất (input)

* Tổ chức tìm hiểu về nguyện vọng, sở thích và năng khiếu thể thao của sinh viên

Sinh viên là đối tượng GDTC trong trường đại học, đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất về thể lực. Những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vận động của sinh viên đã được trang bị, rèn luyện từ khi học ở các bậc học dưới là cơ sở quan trọng để họ lĩnh hội những nội dung GDTC ở trường đại học. Vì vậy, tìm hiểu về nguyện vọng, sở thích, khả năng và năng khiếu thể thao của sinh viên sẽ tạo điều kiện tốt cho việc tổ chức GDTC ở trường đại học. Đây được coi là một trong những nội dung quản lý “đầu vào” của hoạt động GDTC cho sinh viên. Ở nội dung quản lý này, chủ thể quản lý cần quan tâm tổ chức cho giảng viên làm tốt một số công việc sau:

Một là, tổ chức giáo dục động cơ, thái độ cho sinh viên đối với nhiệm vụ học tập, rèn luyện GDTC.

Động cơ, thái độ của sinh viên là yếu tố “đầu vào” chi phối khá sâu sắc đến chất lượng GDTC ở trường đại học. Để quản lý hoạt động GDTC cho sinh viên theo tiếp cận ĐBCL, cần quan tâm tổ chức giáo dục, động cơ, thái độ cho sinh viên đối với nhiệm vụ học tập, rèn luyện GDTC. Theo đó, trong chương trình GDCT cần có nội dung “nhập môn”, bên cạnh đó, mở đầu từng nội dung bài giảng, giảng viên phải quán triệt cho sinh viên mục đích, yêu cầu, qua đó động viên sự nỗ lực của sinh viên trong học tập và rèn luyện.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/02/2024