- Kết hợp giữa thực hành và lao động sản xuất ra sản phẩm. Thông qua quá trình làm ra sản phẩm, hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng thực hành kĩ thuật, rèn luyện từng loại thao tác cơ bản. Vì thế việc chuẩn bị bài dạy của giáo viên thường bắt đầu bằng sự tìm tòi, nghiên cứu đề ra hệ thống các bài tập thực hành, nội dung từng bài tập thực hành, chủ yếu là xác định một loại sản phẩm, để hướng dẫn cho học sinh làm, phù hợp với chương trình (sát với lý thuyết và kĩ năng thực hành được học), đồng thời phù hợp với hoàn cảnh khách quan (điều kiện về trang thiết bị, nguyên vật liệu...).
- Nội dung từng bài dạy luôn cố gắng thể hiện tinh thần giáo dục kĩ thuật- công nghệ với nhiều yếu tố quan trọng như: thường xuyên liên hệ những hiện tượng kĩ thuật với những tri thức các bộ môn văn hoá đã học; rèn luyện học sinh có những thao tác kĩ thuật chuẩn theo yêu cầu công nghiệp; rèn luyện thói uen, nề nếp chấp hành kỉ luật lao động tập thể, quy trình, quy phạm, định mức kinh tế kĩ thuật, quy tắc an toàn lao động.
- Ngoài những buổi dạy theo trình tự của chương trình mà nội dung thông thường là hình thành tri thức, kĩ năng từng phần, từng yêu cầu cụ thể, cần bố trí các bài thực hành tổng hợp nhằm hướng dẫn học sinh vận dụng tổng tri thức và kĩ năng đã được học, tự mình giải quyết hoàn chỉnh một nhiệm vụ sản xuất nhất định. Hệ thống bài tập thực hành tổng hợp hướng vào mục đích giáo dục là chính, không nhất thiết là làm ra sản phẩm, nội dung càng phong phú càng tốt, số lượng bài tập càng nhiều thì hiệu quả giáo dục càng cao.
- Để thực hiện được việc cải tiến nội dung chương trình dạy học, người quản lý cần đứng trên quan điểm quản lý nội dung chương trình theo cách tiếp cận mục tiêu, đồng thời thường xuyên tạo điều kiện và động viên giáo viên cải tiến nội dung chương trình.
(3) Đổi mới phương pháp DHNPT: quán triệt tới từng cán bộ, giáo viên, đổi mới phương pháp dạy học không phải phủ nhận cái hiện có mà kế thừa và phát huy những thành tựu và kết quả đã được ghi nhận, đồng thời tìm cách đưa ra những biện pháp mới nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của kinh tế-xã hội, của dạy học NPT. Người quản lý phải xác định, đổi mới phương pháp dạy NPT là một quá trình lâu dài, do phải thay đổi nhận thức và thói quen của giáo viên và học sinh. Đổi mới phương pháp có quan hệ chặt chẽ tới đổi mới nội dung chương trình, cơ sở vật chất-thiết bị, cách KTĐG. Vì vậy cần tổ chức đổi mới đồng bộ các thành tố của quá trình dạy học.
Đổi mới phương pháp DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, phải thay đổi phương pháp dạy học đi từ bộ ba truyền thống trong dạy
học: kiến thức - kĩ năng - thái độ, sang bộ ba mới đi từ: phương pháp tự tìm tòi lấy tri thức, tức là đi từ thái độ sang kĩ năng, phương pháp, rồi mới đến kiến thức. Như vậy, học sinh sẽ học tập môn NPT hào hứng hơn, chẳng những có được tri thức mà còn có được cả PP học tập mới, phát huy được năng lực tự học, tự đào tạo, nhờ đó phát huy cao độ nội lực người học, có được kết quả tốt trong DHNPT.
Để tiến hành đổi mới phương pháp DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi cán bộ quản lý Trung tâm, giáo viên có nhiều năng lực tổ chức, điều khiển, năng lực tư duy, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn. Do vậy, phải có chiến lược DH phù hợp, phải đầu tư nghiên cứu nội dung, thiết kế bài học theo nội dung chương trình tổ chức tối ưu, phải điều khiển các giờ học theo quan điểm dạy học “lấy người học làm trung tâm” phát huy cao độ ý thức và trí tuệ người học.
3.2.3.3. Tổ chức thực hiện biện pháp
Để tổ chức thực biện pháp:điều chỉnh danh mục nghề PT cải tiến nội dung chương trình, đổi mới phương pháp DHNPT, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiên nay. Trước hết phải có sự tìm hiểu rất kỹ thực trạng về các môn NPT, nội dung chương trình, hoạt động DHNPT, CSVS, trang thiết bị kỹ thật phụ vụ DHNPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội. Trên cơ sở đó, xây dựng bản kế hoạch chi tiết, khoa học cụ thể về: biện pháp điều chỉnh danh mục nghề PT, cải tiến nội dung chương trình, đổi mới phương pháp DHNPT, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay. Trong đó có những đề xuất cải tiến, điều chỉnh, thay đổi tích cực về điều chỉnh danh mục nghề PT, nội dung, chương trình, phương pháp dạy học các môn NPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay.
Quán triệt đội ngũ CBQL, GV Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, về yêu cầu đổi thay đổi, mới, điều chỉnh danh mục nghề PT, nội dung, chương trình, phương pháp trong hoạt động DHNPT ở Trung tâm. Tuyên truyền, giải thích, hỗ trợ cho GV trong thực hiện đổi mới môn NPT, nội dung, chương trình, phương pháp dạy học các môn NPT ở Trung tâm.
Lãnh đạo trung tâm GDKTTH số 5 Hà nội, thường xuyên theo sát, đôn đốc, hỗ trợ, điều chỉnh, rút kinh nghiệm kịp thời, thực hiện tốt chức năng KTĐG, tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm quá trình triển khai, thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh danh mục đào tạo nghề PT, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học các môn NPT ở Trung tâm. Thực hiện tốt, có hiệu quả: biện pháp điều chỉnh danh mục
nghề PT, cải tiến nội dung chương trình, đổi mới phương pháp DHNPT, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay, nhất định sẽ đạt được kết quả cao trong hoạt động DHNPT, quản lý DHNPT ở trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay.
3.2.4. Biện pháp 4: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT trong quản lý DHNPT
3.2.4.1. Mục đích
Học sinh tới học NPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội là “một trò hai trường”, thực trạng này đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, giữa Trung tâm với các trường PT. Học sinh cùng một lúc phải theo học hai nội dung chương trình, học các môn văn hoá ở nhà trường PT và học môn NPT tại Trung tâm GDKTTH. HSPT cùng một lúc là thành tố của cả hai hệ thống (có thể gọi là hai phân hệ của hệ thống lớn hơn gồm trường phổ thông và Trung tâm GDKTTH), cùng một lúc chịu sự tác động của các thành tố ở hai hệ thống khác nhau, do vậy sự phối hợp này phải đảm bảo làm sao cho các tác động lên HS là “cùng chiều”, nghĩa là có thể tăng cường, bổ trợ cho nhau cùng phát triển, chứ không làm suy yếu nhau.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Trung tâm GDKTTH số 5, với các trường PT có HS tới Trung tâm học NPT được quan tâm thực hiện, nhằm tạo ra sự thống nhất giữa 2 quá trình dạy học: dạy văn hóa ở trường PT và dạy NPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội. Mục đích: giáo dục, đào tạo HSPT sau khi tốt nghiệp trường PT có đủ phẩm chất và năng lực vừa có khả năng có thể học lên cao, lại vừa có khả năng hội nhập vào cuộc sống lao động nghề nghiệp trong xã hội, thực hiện tốt mục tiêu giáo dục PT.
3.2.4.2. Nội dung biện pháp
Nội dung của biện pháp: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa trung Tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT trong quản lý DHNPT giai đoạn hiện nay, bao gồm:
- Xây dựng cơ chế tuyển sinh: Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội tuyển sinh DHNPT dựa trên nguyên tắc: đảm bảo chỉ tiêu về số lượng, tuyển đồng đều theo cơ cấu các NPT hiện có. Tháng 8 hàng năm, Trung tâm mở hội nghị tuyển sinh (lớp 8 THCS và lớp 11 THPT) để thống nhất quan điểm, chỉ tiêu tuyển sinh theo từng nghề đối với các trường PT, bàn bạc thống nhất kế hoạch dạy NPT, thời khóa biểu học NPT và việc đưa HS tới Trung tâm học NPT. Trường PT căn cứ vào khả năng nhu cầu của trung tâm và nhu cầu của trường mình, bố trí, lên danh sách HS học các lớp NPT dựa trên đặc điểm về tâm lý, khuynh hướng, nguyện vọng của HS ở các lớp học văn hoá, tổ chức thành các lớp học NPT gửi đến Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội.
- Xây dựng phương án phối hợp trong tổ chức dạy học và DHNPT: Trên cơ sở tạo ra sự thống nhất giữa quá trình dạy học ở trường PT và ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội. Phải kết hợp được nội dung các bộ môn học ở trường phổ thông, nhất là các môn cần gần với nội dung các môn NPT dạy ở Trung tâm GDKTTH. Bảng 3.1. dưới đây cho thấy sự liên thông, liên kết giữa các nội dung dạy ở trường PT và ở Trung tâm. Như vậy, để nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt động DNPT cho HSPT phải thiết lập sự liên thông, liên kết giữa nội dung chương trình kĩ thuật và nội dung chương trình dạy NPT. Ở đây nội dung chương trình kĩ thuật là kĩ thuật cơ sở phục vụ cho chương trình nghề, về thực chất DNPT cho HSPT là hình thành kĩ năng lao động, kĩ năng nghề nghiệp. Hiệu quả của sự kết hợp này phụ thuộc vào đội ngũ CBQL, GV trường PT và Trung tâm GDKTTH, có thực hiện dạy đủ, bám sát chương trình và SGK hay không.
Bảng 3.1. Sự liên thông giữa chương trình Công nghệ với chương trình dạy NPT
Thiết lập sự liên thông nội dung - chương trình | |||
Các môn công nghệ, kỹ thuật ở trường PT | Các mônNPT ở Trung tâm GDKTTH | ||
1 | Trồngtrọt | Nghề làm vườn | |
2 | Chăn nuôi | Nghề nuôi gia cầm | |
3 | Thuỷ sản | Nghề nuôi cá nước ngọt | |
4 | Động cơ đốt trong | Nghề SC xe máy | |
5 | Gia công vật liệu | Nghề mộc | |
6 | Kĩ thuật Điện | Nghề Điện dân dụng | |
7 | Kinh tế gia đình | Nghề Cắt may, Thêu, Đan, Móc |
Có thể bạn quan tâm!
- Bồi Dưỡng Chuyên Môn Nghiệp Vụ, Nâng Cao Trình Độ Giáo Viên
- Ý Kiến Đánh Giá Của Gv Và Hs Về Mức Độ Thực Hiện Một Số Nội Dung Qlhs Ở Trung Tâm Gdktth Số 5 Hà Nội.
- Các Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Dhnpt, Ở Trung Tâm Gdktth Số 5 Hà Nội, Trong Giai Đoạn Hiện Nay
- Biện Pháp 6: Ktđg Kết Quả Học Npt Của Hs, Ở Trung Tâm Gdktth Số 5 Hà Nội, Theo Hướng Phát Triển Năng Lực
- Quản lý hoạt động dạy học nghề phổ thông ở Trung tâm Giáo dục kỹ thuật tổng hợp số 5 Hà Nội trong giai đoạn hiện nay - 15
- Quản lý hoạt động dạy học nghề phổ thông ở Trung tâm Giáo dục kỹ thuật tổng hợp số 5 Hà Nội trong giai đoạn hiện nay - 16
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
- Ký Hợp đồng trách nhiệm, giữ Trung tâm GDKTTH số 5 với trường PT, trong tổ chức dạy học NPT: Hợp đồng trách nhiệm, giữ Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT có HS tới Trung tâm học NPT, được ký hàng năm vào buổi tổ chức hội nghị tuyển sinh. Hợp đồng sẽ giúp cho 2 cơ sở giáo dục có sự thông hiểu, nhận thấy rõ trách nhiệm của mình, thường xuyên trao đổi thông tin cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động đào tạo, cùng cộng đồng trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện tốt chức năng giáo dục của cơ sở mình. Hợp đồng trách nhiệm, giữ hai cơ sở giáo dục có nội dung chính như sau:
Bảng 3.2. Hợp đồng trách nhiệm tổ chức thực hiện hoạt động DHNPT giữa Trung tâm GDKTTH và các trường PT.
Trường phổ thông | Trung tâm GDKTTH |
-Cử GV tham gia QLHS học nghề tại TT. -Bố trí, sắp xếp học sinh một lớp nghề không nên vượt quá 3 lớp học văn hoá, không nên tách nam riêng, nữ riêng. -Thường xuyên quan tâm, nhắc nhở đôn đốc học sinh của mình chấp hành tốt nội quy học tập của trung tâm. -Thu học phí theo quy định của UBND Thành phố (nếu đơn vị nào thu giúp trung tâm, trung tâm sẽ trích % học phí thu được theo quy định trả lại cho nhà trường). -Nếu nhà trường huy động, hoặc có nhu cầu cho học sinh nghỉ học nghề tham gia các hoạt động khác của Nhà trường thì phải báo trước cho Trung tâm | - Tiếp nhận học sinh đến học, - Lập sổ kiểm danh, sổ điểm, hồ sơ dạy nghề PT và hồ sơ phạm quy của học sinh để hàng tháng nhà trường tham khảo. Trung tâm gửi về trường bảng điểm có ghi nhận xét ý thức học tập của học sinh. -Trung tâm trang bị đầy đủ thiết bị, dụng cụ thực hành cho học sinh thực hành. -Phục vụ nước uống, thuốc y tế, trông coi bảo vệ tài sản, đảm bảo an ninh cho học sinh khi đến Trung tâm học nghề -Cuối khoá tổ chức thi Nghề (theo KH của Sở Giáo dục & Đào tạo) và cấp chứng chỉ NPT cho học sinh đạt yêu cầu. |
Trách nhiệm chung: Hai bên phải thường xuyên trao đổi thông tin và cùng nhau phối hợp giải quyết các trường hợp vi phạm nội quy, nề nếp học tập... |
(Có phụ lục Hợp đồng kèm theo)
3.2.4.3. Tổ chức thực hiện biện pháp
Để tổ chức thực hiện tốt biện pháp: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT trong quản lý DHNPT, phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay. Trước hết phải xây dựng bản kế hoạch về cơ chế phối hợp, giữa Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT trong hoạt động DHNPT, giai đoạn hiện nay. Bản kế hoạch được xây dựng trên cơ sở có sự tham khảo ý kiến của các trường PT, khoa học, cụ thể, chi tiết, tỉ mỉ nhưng có tính khả thi cao.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Trung tâm với các trường PT, trên cơ sở chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau, cùng chung mục tiêu là hoàn thành nhiệm vụ giáo dục của mỗi cơ sở. Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, phải thật chu đáo trong công tác chuẩn bị và nội dung trình bày trong hội nghị tuyển sinh với các trường PT, như vậy mới mang lại thành công. Hợp đồng trách nhiệm giữa Trung tâm với các trường PT, phải được soạn thảo cẩn thận, chu đáo, có sự tham khảo từ lãnh đạo các trường phổ thông, phải tìm thấy sự đồng thuận cao.
Quá trình thực hiện cơ chế phối hợp, giữa trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT, Trung tâm phải phân công cán bộ chuyên trách, chịu trách nhiệm trước GĐ Trung tâm phối hợp với trường PT trong quá trình thực hiện. Lãnh đạo
Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, phải thường xuyên nắm bắt tình hình, đôn đốc, thực hiện tốt chức năng KTĐG công tác phối hợp với trường PT, việc thực hiện nội dung đã ký với các trường PT. Biện pháp: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, với các trường PT trong quản lý DHNPT phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay. Nếu được thực hiện có hiệu quả, chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ gúp hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay đạt được kết quả cao.
3.2.5. Biện pháp 5: Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả CSVC- thiết bị dạy học phục vụ hoạt động DHNPT
3.2.5.1. Mục đích
Nhằm, khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả CSVC- thiết bị dạy học vào quá trình DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay, qua đó, thu được kết quả tốt trong hoạt động DHNPT ở Trung tâm.
CSVC, thiết bị dạy học là một hợp phần trong môi trường sư phạm tương tác giữa GV-HS, HS-HS và tương tác giữa GV, HS với môi trường dạy học. Thiết bị dạy học có tác dụng hỗ trợ và tăng cường các tương tác trong quá trình dạy học. Muốn đổi mới PPDH, sử dụng các PPDH tích cực và hiệu quả, không thể không đổi mới, sử dụng hiệu quả CSVC, thiết bị dạy học. Thực trạng hiện nay, đa phần GV Trung tâm GDKTTH số 5 HN, vẫn phổ biến là cách dạy học thông báo kiến thức một chiều, thụ động từ thầy đến trò, ít quan tâm cách sử dụng và khai thác hiệu quả CSVC, thiết bị dạy học trong quá trình DHNPT, ảnh hưởng đến kết quả DHNPT ở Trung tâm.
Biện pháp: Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả CSVC- thiết bị dạy học phục vụ hoạt động DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay, mục đích khắc phục những hạn chế nêu trên, giúp đội ngũ CBQL, GV Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, có được hiệu quả cao khi khai thác và sử dụng CSVC- thiết bị dạy học trong hoạt động DHNPTở Trung tâm.
3.2.5.2. Nội dung biện pháp
Gồm có những nội dung chính sau:
Một là, kết hợp việc sử dụng CSVC - thiết bị dạy học với việc thực hiện nội dung và phương pháp DHNPT, ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội. Xét về nội dung và thực hiện các phương pháp dạy học NPT thì thiết bị dạy học đóng vai trò rất tích cực. Vì có thiết bị dạy học tốt thì chúng ta sẽ truyền tải nội dung từ người dạy tốt tới người học tốt được, hay người học chủ động khai thác nội dung dưới sự hướng dẫn
có phương pháp của người dạy. Đứng trên một góc độ nào đó thì CSVC- thiết bị dạy học là một bộ phận không thể thiếu được của nội dung và PP dạy học NPT. Ví dụ, khi tiến hành dạy bài động cơ đốt trong của xe máy, với cách vận hành của nó, thì động cơ 4 kì-phương tiện dạy học trở thành nhân tố của quá trình. GV và HS phải coi như là một bộ phận không thể thiếu được của nội dung và PPDH dạy học NPT.
Hai là, cải tiến phương tiện dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp. Hiện nay, các Trung tâm GDKTTH, các trường phổ thông và ngành Giáo dục đang đứng trước một thách thức mới, đó là phải đào tạo những con người thích ứng với công việc, cuộc sống trong nền kinh tế-xã hội thay đổi liên tục. Trong hoàn cảnh đó, mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học NPT cũng từng bước được đổi mới, điều đó đòi hỏi phương tiện thiết bị cũng phải cải tiến, thì mới phát huy được tác dụng và là một thành tố quan trọng trong quá trình dạy học.
Ba là, phối hợp khai thác CSVC- thiết bị dạy học giữa Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội và các trường PT, thông qua việc phối hợp này có thể trao đổi các phần của phương tiện dạy học, nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng nó trong quá trình dạy học, quản lý DHNPT. Những CSVC - thiết bị dạy học đó là: phòng học, băng hình về cấu tạo máy, sơ đồ mạch điện, cấu tạo vi mạch và các phần mềm dạy học...
Bốn là, đảm bảo các điều kiện phục vụ cho việc sử dụng phương tiện dạy học như điện nước, không khí, ánh sáng, an toàn, độ che tối... được đáp ứng theo yêu cầu của mỗi môn NPT ở Trung tâm số 5. Điều này đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa mục đích lao động nghề nghiệp- đối tượng lao động-công cụ lao động- điều kiện lao động và việc xử dụng phương tiện DHNPT.
Năm là, bảo đảm sự liên hệ lẫn nhau giữa GV, HS và phương tiện DHNPT. Việc liên hệ này góp phần làm phát triển hoạt động tư duy độc lập của học sinh, là một hệ thống hoạt động có liên quan với nhau, tức là toàn bộ quá trình nhận thức và hành động nhằm đạt mục đích đề ra.
Cuối cùng, cần chú ý làm tốt công tác bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ giáo viên, cán bộ chuyên trách quản lý về CSVC- thiết bị dạy học để họ có thể làm chủ trong khai thác và sử dụng phương tiện, làm cho họ thấy việc sử dụng phương tiện và thiết bị dạy học là nhu cầu không thể thiếu được trong các bài giảng NPT. Lãnh đạo Trung tâm cần có chế độ khuyến khích, động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC, phương tiện, thiết bị dạy học, để giáo viên phát huy hết khả năng của mình trong việc thiết kế và sử dụng CSVC- thiết bị dạy học hiệu quả.
3.2.5.3. Tổ chức thực hiện biện pháp
Để có được hiệu quả cao, trong việc tổ chức thực hiện biện pháp: khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả cơ sở vật chất-thiết bị dạy học ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, trong giai đoạn hiện nay, Trước hết phải có sự tìm hiểu rất kỹ thực trạng về CSVS, trang thiết bị kỹ thật phụ vụ DHNPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội. Nắm vững thực trạng CSVS, trang thiết bị kỹ thật của Trung tâm, có kế hoạch sửa chữa, mua sắm bổ xung kịp thời trước năm học mới. Trên cơ sở đó, vào đầu các năm học xây dựng bản kế hoạch chi tiết, khoa học cụ thể về: khai thác và sử dụng CSVC- thiết bị dạy học ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, có tham khảo ý kiến của CBQL, TCM, GV để có được biện pháp khai thác, quản lý và sử dụng hiệu quả.
Thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức của đội ngũ GV Trung tâm về vai trò quan trọng của CSVS, trang thiết bị kỹ thật đối với hoạt động DHNPT ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội. Giáo dục ý thức tự giác của GV trong khai thác sử dụng và bảo quản CSVS, trang thiết bị kỹ thật dạy học của Trung tâm. Luôn nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức về sử dụng thiết bị dạy học trong đội ngũ GV, đặc biệt là các thiết bị dạy học được cấp trên trang bị cho Trung tâm. Nếu kiến thức về sử dụng thiết bị dạy học của GV chưa tốt sẽ dẫn đến ngại sử dụng hoặc không muốn sử dụng những thiết bị dạy học đó. Khắc phục tình trạng GV ngại khó, trong việc sử dụng thiết bị dạy học. Hoặc đánh giá chưa đúng về thiết bị dạy học (quá cao, quá thấp) của CBQL, GV, việc đánh giá chưa đúng dẫn đến chỗ nhiều GV chỉ thấy tính chất minh họa của thiết bị dạy học mà quên mất rằng mỗi thiết bị dạy học có thể mang đến một lượng thông tin lớn cho bài học, làm cho GV luôn bị động, không phát huy được tác dụng nhận thức, tác dụng giáo dục của thiết bị dạy học.
Thường xuyên động viên, khuyến khích GV, TCM khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả cơ sở vật chất-thiết bị dạy học ở Trung tâm trong hoạt DHNPT, đưa vào nội dung đánh giá thi đua trong Trung tâm, ví dụ: tiêu chí đánh giá xếp loại giờ dạy đạt loại giỏi, là GV phải sử dụng hiệu quả thiết bị kỹ thật hiện đại trong giờ giảng. Lãnh đạo Trung tâm thường xuyên theo dõi, thực hiện tốt chức năng KTĐG việc khai thác và sử dụng CSVC-thiết bị dạy học ở Trung tâm. Lãnh đạo, CBQL Trung tâm luôn quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để GV khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả cơ sở vật chất-thiết bị dạy học ở Trung tâm.
Thực hiện tốt, có hiệu quả: biện pháp: khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả CSVC- thiết bị dạy học ở Trung tâm GDKTTH số 5 Hà Nội, nhất định sẽ có được kết