Thực Trạng Quản Lý Hoạt Động Học Môn Tiếng Việt Của Học Sinh Tiểu Học

Các kết quả điều tra trên cho thấy:

Đa số cán bộ quản lý cho rằng giáo viên đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhưng hiệu quả đạt được chưa cao. (Trong đó có 24,5% đánh giá đạt mức tốt; 35,2% đánh giá đạt mức khá; 40,5% đạt mức trung bình; không có trường hợp nào đánh giá chưa đạt).

Có 18/35 cán bộ quản lý (chiếm tỉ lệ 51,4%) đánh giá năng lực xây dựng kế hoạch bài dạy môn Tiếng Việt của giáo viên hiện nay còn có mức trung bình. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng dạy học Tiếng Việt cho học sinh chưa cao.

* Thực trạng quản lý giờ lên lớp của giáo viên

Hoạt động giảng dạy môn Tiếng Việt của giáo viên ở trường PTDTBT tiểu học được thực hiện qua chủ yếu thông qua giờ lên lớp của giáo viên, vì giờ lên lớp là khâu quan trọng trong quá trình giảng dạy, giáo viên sẽ thể hiện năng lực sư phạm và trình độ chuyên môn, kiến thức và trong cuộc sống và xã hội. Giờ lên lớp giữ vai trò quyết định chất lượng môn học trong nhà trường.

Bảng 2.3. Quản lý giờ dạy lên lớp của giáo viên



TT


Nội dung quản lý

Mức độ thực hiện,

Số lượng %

Tốt

Khá

TB

Chưa

tốt

1

Tổ chức cho giáo viên thực hiện quy chế,

tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại tiết dạy.

85

85,0%

15

15,0%

0

0

2

Quản lý giờ dạy thông qua thời khóa biểu, kế

hoạch bài dạy.

90

90,0%

10

10%

0

0

3

Xây dựng nề nếp dạy học của giáo viên, kiểm

tra đánh giá, xếp loại thi đua hàng tháng.

64

64,0%

30

30,0%

6

6,0%

0

4

Quy định về thông tin, báo cáo và sắp xếp

dạy bù trong trường hợp giáo viên vắng.

90

90,0%

10

10,0%

0

0

5

Tổ chức dự giờ tham lớp theo định kỳ, đột

xuất, góp ý rút kinh nghiệm.

65

65,0%

20

20,0%

15

15,0%

0

6

Thu thập thông tin của học sinh, phụ huynh

học sinh và đồng nghiệp.

85

85,0%

11

11,0%

4

4,0%

0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên - 8

Kết quả khảo sát thực trạng việc quản lý giờ lên lớp môn Tiếng Việt của giáo viên ở các trường PTDTBT tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên được thể hiện qua bảng cho thấy:

Hiệu trưởng các trường PTDTBT tiểu học đã thực hiện nội dung quản lý giờ lên lớp của giáo viên. 100% phiếu đều đánh giá tốt việc quản lý kế hoạch dạy học và xây dựng được tiêu chuẩn đánh giá giờ dạy trên lớp, tuy nhiên vẫn còn 6% phiếu đánh giá việc xây dựng nề nếp dạy học của giáo viên, kiểm tra đánh giá, xếp loại thi đua hàng tháng ở mức trung bình 20% phiếu đánh giá việc tổ chức dự giờ định kỳ và đột xuất có góp ý ở mức trung bình. Vì vậy, kết quả đánh giá trên đây cho thấy các hiệu trưởng trường PTDTBT tiểu học đã thực hiện nội dung quản lý giờ dạy trên lớp của giáo viên, song việc thực hiện này chưa được đồng bộ.

* Thực trạng quản lý hoạt động dạy học của giáo viên về tổ chức đổi mới phương pháp dạy học tích cực môn Tiếng Việt, nâng cao chất lượng giờ dạy

Căn cứ vào điều kiện thực tế ở các trường, về nhận thức đánh giá một cách khách quan về hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh trong môn Tiếng Việt, đồng thời qua việc trao đổi dự giờ, sinh hoạt chuyên môn và xem xét các hoạt động phục vụ dạy học tại các nhà trường tác giả nhận thấy: Đa số ý kiến cho rằng việc đổi mới phương pháp dạy học tích cực sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt. Vì vậy trong thực tế nhiều giáo viên ngại đầu tư trong thiết kế bài dạy, ngại đầu tư nghiên cứu và tìm tòi, một số giáo viên tuổi cao còn hạn chế về công nghệ thông tin, hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy học trong những năm gần đây chưa được các hiệu trưởng quan tâm đúng mức, nhất là kỹ năng về sư phạm, chưa được tiến hành một một cách thường xuyên đối với công tác thi đua khen thưởng kịp thời.

Theo quan điểm của một số giáo viên đã có kinh nghiệm trong nghề, một tiết học được coi đổi mới khi thể hiện được khâu: Không thể hiện sự đọc và chép, Giao việc cho học sinh làm, Sử dụng đồ dùng dạy học.

Như vậy việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học, công việc đầu tiên của người giáo viên cần phải đổi mới là khâu thiết kế bài dạy.

Khi thực nghiệm tại nhà trường, tác giả đã dự một số tiết trên lớp, tuy đã được báo trước và các tiết đã được chuẩn bị trước, khi xem bài soạn trên 60% số giáo viên đã có sử dụng hệ thống câu hỏi và hệ thống hoạt động của thầy và trò trong từng phần, từng mục. Nhưng kỹ năng thiết kế bài dạy theo hướng phát huy, tính độc lập, chủ động sáng tạo của học sinh, kỹ năng soạn bài theo kiểu trò chơi Sư phạm, kỹ năng soạn bài theo hướng dạy để học sinh tự học còn rất mới hầu như chưa được sử dụng trong bài dạy. Việc dạy ở trên lớp của giáo viên gần 50% các tiết dạy điều diễn ra theo phương pháp cũ, thầy giảng, trò nghe ghi chép tái hiện, thậm chí có những tiết dạy giáo đọc những gì và ghi tóm tắt trong sách giáo khoa, chưa tổ chức được cho các học sinh thảo luận nhóm phát hiện ra vấn đề, chưa rèn cho học sinh kỹ năng hợp tác với nhau.

Vì vậy xét về góc nhận thức với cán bộ quản lý nhà trường đều có nhận thức đúng đắn và cấp thiết về việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong kế hoạch năm học khá chi tiết, kế hoạch họp hội đồng hàng tháng, người hiệu trưởng đã thể hiện rõ việc phân quyền cho phó hiệu trưởng và các tổ chuyên môn điều hành các tổ, các tổ trưởng chuyên môn đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, thể hiện trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề, thao giảng, dự giờ, rút kinh nghiệm rèn luyện các kỹ năng dạy học theo hướng đổi mới phương pháp dạy học tích cực cho giáo viên. Qua đó, về mặt nhận thức và thực hiện có thể đánh giá bước đầu cơ bản khá thuận lợi và có chuyển biến tích cực trong đội ngũ giáo viên. Nhưng việc đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy là vấn đề mới và hết sức nhạy cảm, không thể ngày một, ngày hai có thể thực hiện được, nên chưa phát huy được tính sáng tạo, tích cực, chủ động của học sinh, trong học tập học sinh

chưa rèn được kỹ năng thực hành một cách vững chắc. Giáo viên chưa thực sự là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập. Học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn, thái độ động cơ học tập chưa rõ ràng.

Hiện nay, trong các tiết học của phân môn Tiếng Việt có rất nhiều nội dung tích hợp cần giáo dục cho học sinh, tuy nhiên khả năng tích hợp các nội dung của giáo viên còn rất thấp hiệu quả chưa cao.

Năng lực làm và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên còn chưa cao. Có đến 16/35 cán bộ quản lý (chiếm tỉ lệ 45,7%) đánh giá năng lực này của giáo viên chỉ đạt mức trung bình, hầu hết giáo viên được đào tạo theo phương pháp truyền thống, thầy giảng, trò ghi và trò tái hiện lại kiến thức tiếp thu, chưa thành thạo trong việc sử dụng các thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại cũng như việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.

Năng lực tổ chức các hoạt động hiệu quả trong giờ học môn Tiếng Việt cho học sinh hầu hết giáo viên còn rất thấp (có đến 51,4% cán bộ quản lý đánh giá ở mức trung bình và 5,7% đánh giá ở mức chưa đạt).

2.3.4. Thực trạng quản lý hoạt động học môn Tiếng Việt của học sinh tiểu học

Việc đánh giá thực trạng học tập môn Tiếng Việt của học sinh được thực hiện qua phiếu điều tra tại các trường tiểu học huyện Nậm Pồ và cứu số liệu báo cáo thống kê của phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Nậm Pồ để đánh giá kết quả học tập, thái độ, động cơ học tập của học sinh, tìm ra nguyên nhân của thực trạng.

* Thực trạng quản lý hoạt động học tập môn Tiếng Việt của học sinh

Việc quản lý hoạt động học tập môn Tiếng Việt là một điều đáng quan tâm trong hoạt động học tập của học sinh là hiệu trưởng phải quan tâm chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng phương pháp tự học cho học sinh, hướng dẫn các em tự học ở trên lớp cũng như học ở nhà, yêu cầu các em xây dựng thời khóa biểu học tập ở nhà, việc kiểm tra học ở nhà của các em trên cơ sở phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.

Để quản lý tốt việc học tập của học sinh, hầu như các nhà trường tới việc giáo dục tinh thần, thái độ, động cơ học tập, tính trung thực trong học tập, nhiều trường nề nếp học tập có tiến bộ rõ rệt trên cơ sở phối hợp tốt các lực lượng giáo dục như: Tổng phụ trách đội, chủ nhiệm lớp, hội cha mẹ học sinh. Các trường đã áp dụng khá tốt các hình thức động viên, khen thưởng, phê bình, kỷ luật học sinh.

2.3.4.1. Kết quả học tập của học sinh

Bảng 2.4. Thống kê kết quả học tập môn Tiếng Việt giai đoạn 2016-2018



Năm học


T.Số

trường

Tổng số HS

được đánh

giá

Chất lượng giáo dục môn Tiếng Việt

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn

thành

Số

lượng

Tỷ lệ

Số

lượng

Tỷ lệ

Số

lượng

Tỷ lệ

2016-2017

11

5249

991

18,9

4240

80,8

18

0,3

2017-2018

11

5430

1085

20,0

4330

79,7

15

0,28

(Nguồn: Báo cáo của Phòng GD&ĐT huyện Nậm Pồ)


Nhìn vào kết quả trên, chúng ta thấy chất lượng học tập môn Tiếng Việt của học sinh qua các năm đã có sự chuyển biến và tiến bộ, tuy nhiên tỷ lệ học sinh yếu vẫn còn, sự tiến bộ còn chậm chưa có sự bứt phá. Chất này ảnh hưởng nhiều chất lượng của những môn học khác, làm cho chất lượng giáo dục nói chung của các trường PTDTBT Tiểu học đạt kết quả không như mong muốn.

2.3.4.2. Việc tham gia học tập của học sinh

Để tìm hiểu thực trạng học tập của học sinh chúng tôi đã tiến hành khảo sát 35 giáo viên với 3 trường PTDTBT tiểu học gồm: Trường PTDTBT tiểu học Nậm Nhừ, Trường PTDTBT tiểu học Nà Khoa,Trường PTDTBT tiểu học Na Cô Sa, với câu hỏi 4 mức độ loại Tốt, Khá, Trung bình, chưa tốt, kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.5. Kết quả kiểm tra về hoạt động học tập của học sinh



TT


Nội dung điều tra

Ý kiến đánh giá,

Số lượng %

Tốt

Khá

TB

Chưa

tốt

1

Thái độ học tập đối với môn Tiếng Việt.

30

88,2%

4

11,8%

0

0

2

Tham gia các hoạt động ngoại khóa môn

Tiếng Việt.

20

58,8%

11

32,4

3

8,8%

0


3

Tham gia tích cực, hứng thú các hoạt động được tổ chức trong giờ học môn

Tiếng Việt.

22

64,7%

10

29,4%

2

5,9%


0

4

Ý thức chuẩn bị bài ở nhà

7

20,6%

10

29,4%

15

44,1%

2

5,9%

5

Biết cách sử dụng các tài liệu liên quan

đến môn học.

17

50,0%

7

20,6%

10

29,4%

0

(Nguồn: Tổng hợp từ các phiếu điều tra)

- Kết quả trên cho thấy, tuy học sinh có ý thức, thái độ trong học tập môn Tiếng Việt tốt (có tỉ lệ 88,2%) nhưng việc tham gia các hoạt động ngoại khóa cũng như các hoạt động của các môn học còn hạn chế (chỉ có 64,7% học sinh tham gia tốt các hoạt động được tổ chức trong giờ học). Số lượng học sinh có học bài, chuẩn bị bài ở nhà còn thấp (tỉ lệ 20,6% đánh giá mức Tốt, 29,4% đánh giá ở mức trung bình và 5,9% được đánh giá là thực hiện chưa tốt.

Vì vậy, qua điều tra thực tế và quá trình theo dõi hoạt động dạy học môn Tiếng Việt tại các trường PTDTBT tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên trong những năm gần đây cho thấy: Về cơ sở vật chất của các trường đã đủ phòng học cho tất cả các lớp dạy 2 buổi/ ngày. Trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ, trang trí lớp học đúng quy định, có đủ sách giáo khoa và sách giáo viên, sách tham khảo phục vụ cho việc dạy và học. Đội ngũ giáo viên ở các trường PTDTBT tiểu học nhiệt tình, đoàn kết, tâm huyết với nghề nghiệp. Ban giám

hiệu chỉ đạo chặt chẽ các hoạt động dạy học trong các nhà trường, có trách nhiệm cao trong công tác, cùng với giáo viên tìm tòi, giải quyết những vướng mắc trong dạy và học, vận động và tuyên truyền được hội phụ huynh học sinh, chính quyền địa phương cùng tham gia công tác giáo dục.

Tuy chất lượng dạy học dạy học môn Tiếng Việt có kết quả chưa được cao, tỉ lệ học sinh yếu trong 2 năm gần đây vẫn còn, nhưng thể hiện được năm sau cao hơn năm trước.

Chính vì nguyên nhân của thực trạng này do nhiều yếu tố kết hợp lại: Cơ cấu giáo viên chưa đồng bộ, trình độ của giáo viên chưa đồng đều dẫn đến việc đổi mới phương pháp dạy học tuy có hiệu quả nhưng còn chưa cao, nhất là việc cập nhật công nghệ thông tin trong giảng dạy và việc sử dụng giáo án điện tử... khiến cho việc tổ chức các hoạt động trong giờ học môn Tiếng Việt chưa được gây hứng thú cho học sinh. Mặt khác chương trình sách giáo khoa môn Tiếng Việt hiện hành có rất nhiều điều chỉnh về nội dung, về cấu trúc của bài học một số phân môn (Luyện từ và câu, Tập làm văn), về phương pháp dạy học, điều đó dẫn đến sự phố hợp, hỗ trợ phụ huynh học sinh hướng dẫn con em mình học ở nhà.

2.3.5. Thực trạng quản lý các điều kiện phục vụ hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học

Phương tiện và các đồ dùng phục vụ hoạt động dạy học là một trong những đặc trưng chủ yếu và yêu cầu bắt buộc của hoạt động dạy học môn Tiếng Việt, nhất là ở bậc tiểu học, phương tiện, điều kiện hỗ trợ giảng dạy giúp học sinh lĩnh hội tốt nhất hệ thống kiến thức mà chương trình dạy học đòi hỏi, phương tiện, điều kiện giảng dạy đầy đủ, đồng bộ, được quản lý và thai thác, sử dụng tốt sẽ có tác động tích cực đối với việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn học Tiếng Việt.

Bảng 2.6. Thực trạng quản lý phương tiện và các điều kiện phục vụ hoạt động giảng dạy‌


TT


Nội dung quản lý

Mức độ thực hiện,

Số lượng %

Tốt

Khá

TB

Chưa

tốt


1

Chỉ đạo, cung cấp, bổ sung các tài liệu, thiết bị dạy học môn Tiếng Việt đáp ứng yêu cầu.

90

75,0%

30

25,0%


0


0

2

Có quy định về sử dụng hợp lý.

60

50,0%

32

26,7%

28

23,3%

0

3

Khuyến khích việc sử dụng có hiệu quả.

55

45,8%

38

31,7%

27

22,5%

0

4

Tổ chức phong trào làm đồ dùng dạy học của giáo viên.

60

50,0%

40

33,3%

15

12,5%

5

4,2%

5

Có biện pháp duy trì bền vững

75

62,5%

45

37,5%

0

0

2.3.6. Thực trạng quản lý hoạt động công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

Kết quả thuyết phục nhất trong việc giảng dạy của giáo viên là chất lượng học tập của học sinh. Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh nó mang ý nghĩa và biết được hiệu quả của quá trình giảng dạy của giáo viên, phát hiện những thiếu sót hoặc những điểm chưa hoàn chỉnh trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học, từ đó có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Đây là yêu cầu quan trọng trong công tác quản lý của người hiệu trưởng đối với việc giảng dạy của giáo viên.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/05/2022