Phương Pháp Xử Lý Số Liệu Bằng Thống Kê Toán Học 84896

7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Tác giả luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các nguồn tài liệu trong và ngoài nước (sách, báo, tạp chí, luận án, luận văn... Các đề tài nghiên cứu) liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tài liệu các văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển Giáo dục- Đào tạo, chương trình giáo dục phổ thông mới; Các tài liệu về bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT. Hệ thống, khái quát hóa những vấn đề lý luận làm công cụ cho quá trình nghiên cứu.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát

Quan sát trực tiếp các hoạt động bồi dưỡng và quản lý bồi dưỡng của Sở GD&ĐT, CBQL trường THPT trong công tác quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới.

7.2.2. Phương pháp điều tra

- Điều tra thu thập số liệu, thông tin bằng các phiếu hỏi, phiếu phỏng vấn về thực trạng biện bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên Trung học phổ thông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang theo chương tình giáo dục phổ thông mới.

- Trao đổi với các đối tượng cần điều tra để khai thác thông tin về công tác bồi dưỡng giáo viên, quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới.

7.2.3. Phương pháp phỏng vấn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Phỏng vấn các nhà QLGD cấp Sở, cán bộ quản lý các trường THPT, các giáo viên THPT huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang để làm rõ năng lực dạy học của giáo viên, nhu cầu bồi dưỡng của giáo viên cũng như các phương pháp, hình thức bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên đã thực hiện.

7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông mới cho giáo viên ở các trường trung học phổ thông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang - 3

Nghiên cứu các báo cáo đánh giá giáo viên cuối năm và kết quả học tập của học sinh để thu thập thông tin đánh giá về năng lực đội ngũ.

7.2.5. Phương pháp chuyên gia

Phương pháp này sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ cao của một chuyên ngành Quản lý giáo dục để xem xét, nhận định đánh giá tính khả thi và tính cấp thiết của các biện pháp quản lý được đề xuất.

7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học

Sử dụng các công thức toán học (Tính %, điểm trung bình) để xử lý các số liệu điều tra, khảo sát thực tiễn thu được nhằm đánh giá thực trạng của công tác quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới.

8. Cấu trúc nội dung luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, phần Phụ lục luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học phổ thông theo chương trình giáo dục phổ thông mới.

Chương 2: Thực trạng quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên ở các trường Trung học phổ thông huyện Mèo vạc, tỉnh Hà Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới.

Chương 3: Biện pháp quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên ở các trường Trung học phổ thông huyện Mèo vạc, tỉnh Hà Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI


1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài

Feiman Nemser. S đặt ra vấn đề: Bằng cấp có cần thiết trong việc nâng cao năng lực dạy học cho GV? Theo tác giả: Căn cứ vào tính chất phức tạp của việc giảng dạy, bằng cấp là một yếu tố cần nhưng chưa đủ để một GV đạt hiệu quả trong công việc của mình. Tác giả nhấn mạnh: một GV nếu muốn nâng cao NLDH của mình chỉ có bằng cấp cao là chưa đủ; Đánh giá năng lực NVDH ở GV nhất thiết phải thông qua quá trình GV thực hiện chức năng nghề nghiệp của họ. Trong quan điểm này, người GV muốn phát triển nghề nghiệp của mình một cách bền vững phải được đào tạo nâng cao trình độ và kết hợp với bồi dưỡng [19].

Jenny Johnson; Norlander-Case, K.A, Reagan, T.G,& Case, C. W. cho rằng: Cách thức GV tự học, tự bồi dưỡng nâng cao NLDH là họ phải chủ động tạo ra những thách thức cho chính mình, học hỏi từ kinh nghiệm của đồng nghiệp, từ chuyên gia để phát kỹ triển năng và kiến thức cho bản thân. Người GV có khuynh hướng học tập suốt đời sẽ luôn biết cách cập nhật, làm mới kiến thức và kỹ năng của mình. Việc cải thiện NLDH có thể được thực hiện cả trong công việc và trong thời gian riêng của GV, đặc biệt phải gắn liền với hoạt động chuyên môn của mỗi cá nhân. Với cách tiếp cận này thì tự học, tự bồi dưỡng được xem là cách thức GV nâng cao năng lực của mình một cách bền vững nhất [22].

Zeki Arsal đã nghiên cứu khuynh hướng học tập suốt đời của 120 GV tương lai ở Thổ Nhĩ Kỳ. Học tập phải được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục bao gồm cả học tập chính thức và không chính thức và diễn ra trong chính cuộc sống và lao động nghề nghiệp của họ. Muốn trở thành những GV giỏi, bản thân mỗi GV cần phải có động lực, sự kiên trì, kĩ năng tự điều chỉnh việc học và sự ham hiểu biết. Kết quả nghiên cứu đã đóng góp vào việc đánh giá các mục tiêu của giáo dục và vạch ra định hướng trong việc bồi dưỡng, phát triển NLDH cho GV ở Thổ Nhĩ Kỳ [26].

Các công trình nghiên cứu trên đã đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự học, tự bồi dưỡng của nâng cao NLDH cho GV, trong đó các tác giả cho rằng sự kiên trì học tập, động lực phấn đấu và lòng ham hiểu biết là những yếu tố không thể thiếu ở mỗi GV. Đây có thể là những tư liệu quan trọng cho các nhà quản lí giáo dục ở Việt Nam có những biện pháp tác động phù hợp đến GV, giúp GV nâng cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng phát triển NLDH cho chính mình.

Về vấn đề quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên, tác giả Sandra H. Harwell cho rằng nhà quản lý giáo dục cần quan tâm đến cách thức GV nâng cao NLDH. Theo tác giả, để nâng cao NLDH cho GV, nhà quản lý cần tập trung vào vấn đề: những yếu kém về NLDH của giáo viên trong tổ chức, trong đo lường đánh giá kết quả học tập của HS. Quan trọng nhất, nên tập trung vào việc bồi dưỡng những phương pháp giảng dạy đã được chứng minh là ảnh hưởng đến thành tích học tập của HS [24].

James M. Banner, Jr. & Harold C. Cannon nhấn mạnh giảng dạy là một nghệ thuật đòi hỏi người dạy phải liên tục học hỏi. Để giáo viên nhận thức được tầm quan tọng của tự học, tự bồi dưỡng, nhà quản lý cần thông qua một loạt các ví dụ về các nhà giáo thành công hoặc không thành công trong nghề nghiệp. Trong nghiên cứu này, khía cạnh xúc cảm được xem là yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự thành công của nghề dạy học, cụ thể là sự ổn định về mặt cảm xúc của GV. Vì vậy, theo các tác giả, điều này nhất định phải được tính đến trong việc hướng nghiệp, đào tạo và tuyển dụng và bồi dưỡng GV [21].

Sam Carlson và Cheick Tidiane Gadi cho rằng muốn bồi dưỡng, phát triển năng lực cho GV, nhà quản lý cần quan tâm đến tính đặc thù của hoạt động nghề nghiệp của họ. Theo tác giả, khi tiến hành tổ chức bồi dưỡng cho GV, các nhà quản lí cần hiểu: GV thường không muốn thay đổi phong cách và thói quen giảng dạy của mình; thận trọng với hoạt động tốn nhiều thời gian dành cho các ưu tiên khác của họ (Kinh tế, gia đình). Nhiều GV cho rằng, để tạo động lực cho họ phát triển nghề nghiệp, hiệu trưởng các trường nên có những chính sách như: Tăng lương, khen thưởng đối với những GV tích cực tham gia vào các hoạt động tích hợp công nghệ thông tin vào bài giảng giúp cải thiện thành tích học tập của HS [23].

Theo các tác giả Fabrice Henard và Soleine Leprince- Renguetc, tổ chức nâng cao NLDH cho GV là một hoạt động không thể thiếu trong một nền giáo dục có chất

lượng. Nâng cao NLDH cho GV là quá trình nhà quản lý tác động một cách thường xuyên nhằm thay đổi về nhận thức, tình cảm, kĩ năng sư phạm của giáo viên. Tác giả khẳng định: Trong bối cảnh thách thức toàn cầu cần có một tác động lâu dài đối với công tác bồi dưỡng phát triển năng lực cho giáo viên. Trong đó biện pháp đầu tiên là phải đổi mới chương trình giảng dạy giúp GV cập nhật và làm quen với sự đổi mới trong phát triển giáo dục về nội dung lí thuyết và phương pháp sư phạm; Tăng số lượng các chuyên gia giáo dục có chất lượng thông qua việc tổ chức tốt các chương trình bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực nghề nghiệp cho giảng viên một cách thường xuyên. Để các biện pháp có hiệu lực, hai điều kiện cần thiết phải được đáp ứng: 1/Tất cả các GV phải được cơ hội tham gia bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp; 2/Chương trình bồi dưỡng nâng cao NL cho GV phải được tổ chức theo nhu cầu phát triển nghề nghiệp của GV [18].

Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích nhiều khía cạnh của việc tổ chức bồi dưỡng nâng cao NLDH cho GV, chú trọng đến nâng cao NLDH thông qua đào tạo và bồi dưỡng cho GV trong sự phát triển giáo dục nói chung. Các tác giả cũng đã xác định được những khó khăn và thách thức có thể có khi thực hiện công tác bồi dưỡng nâng cao NLDH cho GV: thói quen ngại thay đổi của GV, chương trình giảng dạy lỗi thời…Các tác giả cũng đưa ra những đề xuất biện pháp khác nhau nhằm phát triển NLDH cho GV: Tổ chức hội thảo, các khóa học ngắn hạn, các lớp tập huấn và có chính sách khuyến khích tạo động lực thúc đẩy đối với GV tích cực tích hợp công nghệ thông tin trong dạy học. Các tác giả nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc học tập lâu dài, thường xuyên, liên tục của GV trong hoạt động nghề nghiệp.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam

Tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến trong cuốn sách "Đổi mới đào tạo giáo viên trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam" đã phân tích xu thế và một số mô hình đổi mới, cải cách đào tạo giáo viên trên thế giới đồng thời đưa ra những đổi mới đào tạo, bồi dưỡng giáo viên ở Việt Nam theo định hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế [14].

Tác giả Nghiêm Đình Vỳ trong bài viết trên tạp chí Tuyên giáo số 11 ngày 23/3/2014 nêu rõ: "Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phải đi theo hướng mở, cần phải được nhìn nhận như một hệ thống mở và một quá trình phát triển liên tục. Hiện

nay việc đào tạo giáo viên mới chỉ quan tâm chủ yếu ở trường sư phạm, nghĩa là đào tạo ban đầu, các giai đoạn sau như tập sự, đến đào tạo tại chức để nâng cao bằng cấp và bồi dưỡng thường xuyên, giáo viên tham gia vào các hoạt động xã hội ít được quan tâm"; "Xác định yêu cầu bồi dưỡng nhà giáo là nhiệm vụ chiến lược của ngành trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ. Nhà giáo có quyền lợi và trách nhiệm được bồi dưỡng nâng cao trình độ. Hoàn thiện chế độ tập huấn bồi dưỡng giáo viên, dự trù kinh phí thường xuyên, đưa kinh phí bồi dưỡng giáo viên vào dự toán của chính quyền; thực hiện 1 năm hay 3 năm một lần tập huấn cho toàn thể giáo viên nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp và năng lực dạy học cho giáo viên" [15].

Trong bài viết: "Vấn đề bồi dưỡng giáo viên phổ thông hiện nay -Thực trạng và giải pháp" của tác giả Phạm Thị Kim Anh (Tạp chí giáo dục và xã hội tháng 10/2013) đề cập đến thực trạng bồi dưỡng giáo viên phổ thông hiện nay từ nội dung đến cách thức tổ chức, hình thức, phương pháp bồi dưỡng; nêu ra những kết quả đã đạt được cũng như chỉ rõ những bất cập, hạn chế, yếu kém của công tác bồi dưỡng giáo viên, từ đó đưa ra những biện pháp để đổi mới, nâng cao chất lượng bồi dưỡng giáo viên... [1].

Nhìn chung những bài viết đã tập trung nêu lên thực trạng cũng như biện pháp để đổi mới công tác bồi dưỡng giáo viên sao cho có hiệu quả theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau từ: Nội dung, hình thức, phương pháp, quản lý....

Vấn đề quản lý BD giáo viên THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới, đã được một số tác giả đi sâu nghiên cứu như:

Tác giả Huỳnh Văn Méo, Thực trạng và giải pháp bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang đáp ứng chuẩn nghề nghiệp. Trong công trình của mình tác giả đã phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên THPT huyện Châu Thành so với chuẩn nghề nghiệp. Từ kết quả đó, tác giả xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục [10].

Tác giả Vũ Văn Phước với tên đề tài: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên các trường trung học phổ thông huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” đã đi sâu nghiên cứu thực trạng bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, từ đó đề xuất 4 biện pháo quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên trung học phổ thông trước yêu cầu đổi mới giáo dục gồm: Tiếp tục đẩy mạnh tổ chức các hoạt

động nâng cao nhận thức của CBQL và GV về tầm quan trọng của việc bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên các trường THPT trước yêu cầu đổi mới giáo dục; Đổi mới công tác lập kế hoạch bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV các trường THPT theo yêu cầu đổi mới giáo dục; Hoàn thiện khung chương trình bồi dưỡng ĐNGV và thực trạng năng lực dạy học giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay và nâng cao thực trạng năng lực dạy học của giáo viên; Tăng cường công tác kiểm tra & đánh giá kết quả bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên các trường THPT huyện Bình Giang, Tỉnh Hải Dương; Xây dựng chính sách động viên khích lệ hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho đội ngũ giáo viên THPT [12].

Tác giả Hà Thị Huyền trong công trình nghiên cứu của mình “Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp trong các môn Khoa học xã hội cho giáo viên THPT tỉnh Bắc Kạn” đã làm rõ thực trạng bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cũng như quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp trong các môn Khoa học xã hội cho giáo viên THPT tỉnh Bắc Kạn; Trên cơ sở đó tác giả đề xuất 6 biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp trong các môn khoa học xã hội cho giáo viên THPT gồm: Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí, giáo viên về tầm quan trọng của hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp trong các môn khoa học xã hội cho giáo viên trung học phổ thông; Xây dựng kế hoạch quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực DHTH trong các môn KHXH cho giáo viên THPT tỉnh Bắc Kạn phù hợp với tình hình thực tiễn; Hoàn thiện nội dung chương trình bồi dưỡng năng lực DHTH trong các môn KHXH cho giáo viên THPT đáp ứng yêu cầu thực tiễn; Quản lý tốt việc sử dụng đội ngũ giáo viên cốt cán để bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên các môn khoa học xã hội; Đổi mới phương pháp đánh giá kết quả hoạt động bồi dưỡng năng lực DHTH trong các môn khoa học xã hội cho GV THPT tỉnh Bắc Kạn; Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ hoạt động bồi dưỡng; tạo động lực để GV tích cực tham gia bồi dưỡng và tự bồi dưỡng [8].

Tác giả Thái Công Cảnh trong công trình nghiên cứu của mình “Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học của đội ngũ giáo viên ở các trường Trung học phổ thông huyện Đắc hà, Tỉnh Kon Tum” đã làm sáng tỏ thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học của đội ngũ giáo viên THPT gồm: Quản lý mục tiêu bồi dưỡng, Quản lý kế hoạch, nội dung bồi dưỡng năng lực dạy học; Quản lý hình thức

bồi dưỡng năng lực dạy học; Quản lý phương pháp bồi dưỡng năng lực dạy học; Quản lý các điều kiện phục vụ công tác bồi dưỡng năng lực dạy học. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất các biện pháp quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT huyện Đắc hà, Tỉnh Kon Tum [3].

Có thể thấy rằng, trong các công trình nghiên cứu về bồi dưỡng giáo viên, các tác giả đều đi sâu phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ giáo viên; Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng bồi dưỡng giáo viên, từ đó xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên tương ứng với từng bậc học.

Tuy nhiên, trong các công trình nêu trên, chưa có công trình nào đề cập đến việc bồi dưỡng giáo viên THPT theo chương trình giáo dục phổ thông mới, đặc biệt ở một huyện miền núi thuộc khu vực Đông Bắc Việt nam. Do đó, tác giả luận văn lựa chọn đề tài nghiên cứu: Quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực dạy học cho giáo viên THPT ở các trường THPT huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới làm luận văn tốt nghiệp của mình.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Năng lực

Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê biên soạn: “1/Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. 2/ Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao [11].

Theo Vũ Dũng: “Năng lực là tổ hợp các thuộc tính tâm lí độc đáo hay các phẩm chất tâm lí của cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong, tạo điều kiện cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động xác định” [6].

Từ các định nghĩa trên cho thấy: Khi nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả trong hoạt động nào đó. Muốn hoạt động đạt hiệu quả thì cá nhân thực hiện hoạt động ấy phải có những phẩm chất tâm lí nhất định phù hợp với yêu cầu của hoạt động đó. Thực tế cho thấy những người phát triển tâm lí bình thường nào cũng có khả năng tiếp thu một số kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo tối thiểu. Song trong những điều kiện như nhau thì những người khác nhau có thể tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đó với nhịp độ khác nhau. Đặc biệt với một số hoạt động đặc thù như hoạt động văn học, nghệ thuật, thể thao chỉ có một số người có năng lực nhất định mới có thể đạt kết quả. Do đó, khi xét bản chất của năng lực, trước hết cần chú ý: 1/Sự

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/05/2023