DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Quy mô giáo dục huyện Ba Bể năm học 2016-2017 39
Bảng 2.2. Quy mô phát triển của Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Ba Bể (2014- 2017) 42
Bảng 2.3. Kết quả giáo dục của Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn (2014 - 2017) 43
Bảng 2.4. Thực trạng đổi mới nhận thức của giáo viên và học viên về dạy học phân hoá ở Trung tâm GDNN-GDTX Ba Bể 45
Bảng 2.5. Tổng hợp ý kiến đánh giá về quản lý nội dung dạy học phân hoá ở Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên Ba Bể.. 47
Bảng 2.6. Tổng hợp ý kiến đánh giá về công tác quản lý hoạt động dạy của giáo viên ở Trung tâm GDNN-GDTX Ba Bể 49
Bảng 2.7. Tổng hợp ý kiến đánh giá về công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh ở Trung tâm GDNN-GDTX Ba Bể 51
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - 1
- Một Số Vấn Đề Về Dạy Học Phân Hoá Ở Trung Tâm Giáo Dục Nghề Nghiệp
- Tư Tưởng Chủ Đạo Và Một Số Nội Dung Của Dạy Học Phân Hóa Tư Tưởng Chủ Đạo Của Dạy Học Phân Hóa
- Những Nội Dung Cơ Bản Của Quản Lý Dạy Học Phân Hóa Ở Trung Tâm Gdnn-Gdtx
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Bảng 2.8. Tổng hợp ý kiến đánh giá về công tác quản lý các điều kiện hỗ trợ hoạt động dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX Ba Bể 53
Bảng 2.9. Tổng hợp ý kiến đánh giá về các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý dạy học phân hoá ở Trung tâm GDNN-GDTX Ba Bể 56
Bảng 3.1. Tổng hợp ý kiến đánh giá về mức độ cần thiết của các biện pháp quản lý dạy học phân hoá 80
Bảng 3.2. Tổng hợp ý kiến đánh giá về tính khả thi của các biện pháp quản
lý dạy học phân hoá 81
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay, thế giới đang chứng kiến nhiều sự thay đổi lớn: xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá, xu thế hội nhập hợp tác, xu thế kinh tế mở, xu thế kinh tế tri thức... Trong bối cảnh đó, giáo dục phải đổi mới mạnh mẽ và triệt để nhằm đào tạo con người biết thích ứng một cách có hiệu quả trước những thay đổi; luôn luôn nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, phát huy tinh thần tự lực trong lao động và học tập...
Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên (GDNN-GDTX) với các hình thức học tập đa dạng đã trở thành công cụ để mở rộng, tạo cơ hội học tập cho mọi người. Việc coi GDNN-GDTX là một yếu tố thành phần của hệ thống giáo dục quốc dân được ghi trong Quyết định số 112/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010”: “Xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập được dựa trên nền tảng phát triển đồng thời, gắn kết, liên thông của hai bộ phận cấu thành: Giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên của hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình học tập nhằm tạo điều kiện tốt nhất đáp ứng mọi yêu cầu học tập suốt đời, học tập liên tục của mọi công dân sẽ là một bộ phận có chức năng quan trọng, làm tiền đề xây dựng xã hội học tập”.
Ở tỉnh Bắc Kạn, các Trung tâm GDNN-GDTX đã phát triển nhanh chóng làm thành một mạng lưới rộng khắp và đạt được những thành tựu đáng kể về mọi mặt. Bên cạnh những thành tích đã đạt được thì mô hình GDNN-GDTX của tỉnh Bắc Kạn nói chung và Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể nói riêng vẫn còn những bất cập.
Trung tâm GDNN-GDTX cấp huyện chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của UBND huyện; chịu sự hướng dẫn thanh tra, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục và Đào tạo.
Ba đơn vị này không phải lúc nào cũng tìm được tiếng nói chung về mọi vấn đề. Bên cạnh đó, việc bố trí sắp xếp cán bộ, giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn khi đội ngũ giáo viên văn hóa của TTGDTX không được thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn hay tiếp cận những quan điểm đổi mới.
Điểm khác biệt rõ nét của Trung tâm GDNN-GDTX so với các trường THPT là ở đối tượng người học. Học viên của Trung tâm đa dạng về thành phần và lứa tuổi cũng như các điều kiện học tập: có học viên là học sinh sau khi tốt nghiệp THCS không tham gia thi hoặc thi nhưng không đỗ vào các trường THPT; có học viên là lao động tự do đã bỏ học dài ngày hoặc không có điều kiện theo học THPT từ trước có nhu cầu học lại; có học viên là công nhân lao động trong các xí nghiệp, nhà máy, là cán bộ công chức cấp xã. Sự đa dạng về đối tượng đòi hỏi việc dạy học ở Trung tâm GDNN-GDTX phải dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học, tức là đòi hỏi việc dạy học ở Trung tâm GDNN-GDTX phải có tính phân hoá, dạy sao cho vừa sức với đối tượng. Dạy học theo nhóm đối tượng (phân hóa đối tượng) sẽ giúp cho tất cả học viên của Trung tâm đều tích cực học tập. Từ đó, đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học tập của từng học viên.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối với các Trung tâm GDNN-GDTX, thực hiện dạy học phân hoá không hề dễ dàng. Sự đa dạng của học viên Trung tâm gây khó khăn cho giáo viên trong việc tạo môi trường học tập thích hợp; giáo viên chưa được bồi dưỡng để có năng lực hiểu rõ đối tượng giáo dục và có kỹ năng lựa chọn hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng; việc sử dụng phương tiện dạy học để đáp ứng mục tiêu phân hoá còn hạn chế;
… Để khắc phục những tồn tại như thế trong mỗi Trung tâm GDNN-GDTX, vai trò của nhà quản lý giáo dục là rất quan trọng.
Từ yêu cầu của thực tiễn và xuất phát từ vị trí của bản thân - là một cán bộ của Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - tác giả chọn đề
tài “Quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn” làm luận văn Thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về dạy học, quản lý dạy học ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, đề xuất các biện pháp quản lý dạy học phân hóa nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu của người học và yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quản lý dạy học ở Trung tâm GDNN-GDTX.
4. Giả thuyết khoa học
Ở Trung tâm GDNN-GDTX, nhu cầu và đặc điểm của đối tượng người học rất khác nhau: có học viên là học sinh vừa tốt nghiệp THCS, có học viên là lao động tự do đã bỏ học dài ngày, có học viên là cán bộ công chức cấp xã; có học viên chỉ có nhu cầu hoàn thiện học vấn phổ thông, có học viên lại mong muốn học tiếp lên Đại học. Sự đa dạng về nhu cầu và đặc điểm người học đòi hỏi việc dạy học ở Trung tâm GDNN-GDTX phải có tính phân hoá, dạy sao cho phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Nếu đề xuất và áp dụng được các biện pháp quản lý dạy học phân hoá theo nhu cầu và đặc điểm của đối tượng người học sẽ nâng cao được chất lượng dạy học ở các Trung tâm GDNN-GDTX. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nói chung, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học và quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX
5.2. Đánh giá thực trạng dạy học và quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
5.3. Đề xuất biện pháp quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Đề tài nghiên cứu quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hoá (chủ thể quản lý chính là Giám đốc Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đối với hoạt động dạy học chương trình GDTX cấp THPT).
6.2. Việc khảo sát tiến hành trên 3 nhóm:
- Cán bộ quản lý: 3 người
- Giáo viên: 11 người
- Học viên: 20 người
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Sưu tầm, phân tích, tổng hợp các công trình nghiên cứu về tổ chức dạy học và quản lý dạy học nói chung, ở Trung tâm GDNN-GDTX nói riêng trên thế giới và Việt Nam; các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức dạy học và quản lý dạy học của Trung tâm GDNN-GDTX.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:
+ Nghiên cứu hồ sơ giáo dục và quản lý giáo dục của Trung tâm GDNN- GDTX: các kế hoạch, các biên bản sinh hoạt của của tổ chuyên môn; nghiên cứu các sản phẩm của giáo viên như kế hoạch dạy học, giáo án, đồ dùng dạy học, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của giáo viên; nghiên cứu phân tích kết quả học tập của học viên; nghiên cứu chất lượng dạy học của Trung tâm GDNN- GDTX huyện Ba Bể;
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
Tiến hành điều tra bằng anket về thực trạng dạy học và quản lý dạy học ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể. Sử dụng một số thuật toán để xử lý, báo cáo số liệu điều tra khảo sát và khảo nghiệm.
+ Phương pháp tọa đàm, phỏng vấn:
Thực hiện phỏng vấn, tọa đàm sâu với một số cán bộ quản lý, các Tổ trưởng tổ chuyên môn, giáo viên của Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, các chuyên gia về quản lý giáo dục để làm rõ những thông tin nghiên cứu cần chính xác hóa;
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những nguyên nhân, hạn chế trong quản lý dạy học của Trung tâm.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên
Chương 2: Thực trạng quản lý dạy học phân hóa tại Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Biện pháp quản lý dạy học phân hóa tại Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC PHÂN HÓA Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP -
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Thời văn hóa phục hưng, J.A. Cômenxki đưa ra những tư tưởng đạt tới đỉnh cao của tư tưởng giáo dục, mở đường cho một nền dân chủ, khoa học phát triển. Về phương pháp dạy học, Cômenxki quan tâm đến phương pháp dạy học khiến cho người ít lao lực hơn, nhà trường đỡ vất vả hơn, loại bỏ được những công việc nhàm chán vô ích, nhưng lại yên tĩnh, hồ hởi và đạt kết quả bền lâu. Về nguyên tắc dạy học, Cômenxki đưa ra nguyên tắc trực quan; nguyên tắc phát huy tính tích cực, tự giác của học viên; nguyên tắc hệ thống liên tục; nguyên tắc củng cố kiến thức... Cômenxki là người đầu tiên đưa ra kiến nghị đổi mới một cách sâu sắc quá trình dạy học nói chung và hình thức tổ chức dạy học nói riêng. Những quan điểm của J.A.Cômenxki về phương pháp, nguyên tắc và hình thức tổ chức dạy học vẫn còn ý nghĩa tích cực đối với lý luận dạy học hiện đại, giúp cho các nhà quản lý giáo dục có cơ sở để vận dụng sáng tạo trong công tác của mình.
Trong thế giới hiện đại, việc nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường càng trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Để nâng cao chất lượng, vai trò của công tác quản lý giáo dục là hết sức quan trọng. Các nhà nghiên cứu quan tâm, nghiên cứu thực tiễn các nhà trường để tìm ra biện pháp quản lý hiệu quả nhất.
Cuối thế kỷ XX, sự xuất hiện nền kinh tế tri thức, sự hình thành xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hoá đã tạo nên một làn sóng đổi mới, cải cách giáo dục trên thế giới (cải cách giáo dục lần thứ ba). Trong cuộc cải cách lần này,
xuất phát điểm để xem xét vấn đề giáo dục của các nước tương đối giống nhau với trọng tâm là giáo dục đại chúng dần thay thế cho giáo dục tinh hoa; quan tâm đến việc hình thành các phẩm chất và năng lực cho thế hệ trẻ và người lao động về ý thức trách nhiệm, tính tích cực chủ động, năng động sáng tạo... Giáo dục theo quan điểm phân hoá cũng là một trong số đó.
Một số hình thức dạy học phân hoá đã và đang được sử dụng ở bậc THPT của một số nước trên thế giới.
Ở CHLB Nga, bậc THPT ở những trường sử dụng tiếng Nga chỉ có 2 lớp là lớp 10 và lớp 11. Phân hoá dạy học được thực hiện bằng cách kết hợp phân ban với giáo trình tự chọn và hoạt động tự chọn. Có 3 ban là ban Nhân văn; ban Toán - Khoa học Tự nhiên và ban Công nghệ. Mỗi ban được chia thành các chuyên ngành khác nhau.
Ở Mỹ, có nhiều loại hình trường. Loại hình giáo dục phổ thông bao gồm 12 năm và kết thúc ở độ tuổi 17. Bậc trung học không hình thành riêng hệ thống các trường phổ thông, kĩ thuật và nghề nghiệp.
Ở Pháp, nền giáo dục đặc trưng cho hệ thống giáo dục châu Âu cổ điển. Nội dung giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học được phân hóa theo nhiều ban hẹp. Trong đó, phần lớn là các ban kĩ thuật - công nghệ với nhiều môn văn hóa phổ thông và kĩ thuật nghề nghiệp.
Ở Trung Quốc, nội dung dạy học ở các trường phổ thông trung học bao gồm các môn văn hóa chung, các môn khoa học, kĩ thuật và lao động. Chương trình học đã hình thành các môn học tự chọn ở các năm cuối bậc cao trung. Nội dung các môn tự chọn được xác định trên cơ sở nhu cầu của học sinh; nhu cầu của xã hội, điều kiện cụ thể của nhà trường.
Ở Nhật Bản, việc giảng dạy ở cấp 3 được thực hiện theo hệ thống tín chỉ. Mỗi môn học gồm một số tín chỉ. Mỗi tín chỉ gồm 5 tiết học. Để tốt nghiệp cấp 3, học sinh phải đạt được tổng số tín chỉ của các môn học bắt buộc.