Một Số Vấn Đề Về Dạy Học Phân Hoá Ở Trung Tâm Giáo Dục Nghề Nghiệp

Như vậy có thể thấy trên thế giới, giáo dục phân hoá đa phần được thực hiện bằng cách định hướng hoặc phân luồng cho các môn học tự chọn, chú ý tới việc xác định và quy định các môn học bắt buộc. Trong đó, nhiều môn được xây dựng theo kiểu tích hợp một số môn và được kết hợp chặt chẽ, giúp đảm bảo một nền giáo dục hài hòa, toàn diện mà vẫn chuyên sâu hợp lí. Các quốc gia đều thực hiện dạy học phân hóa ở bậc Trung học, thậm chí cả ở bậc Tiểu học. Trong dạy học phân hoá, đều quy định những môn học bắt buộc để đảm bảo mặt bằng chung của học vấn phổ thông.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, dạy học phân hoá đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, với những mức độ khác nhau.

Trong dự án Giáo dục Trung học cơ sở vùng khó khăn nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các tác giả Bùi Phương Nga, Trần Kiều, Vũ Thị Ngọc Anh cho ra đời chuyên khảo Học tích cực - Đánh giá kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở vùng khó khăn nhất. Cuốn sách xoay quanh các hình thức học tích cực, một số kĩ thuật học tích cực, tổ chức dạy học phân hoá trong lớp học. Việc tổng quan về đánh giá kết quả học tập của học sinh Trung học cơ sở là nền tảng để các tác giả đưa ra các phương pháp và quy trình đánh giá trong dạy học tích cực nói chung, dạy học phân hoá nói riêng [30].

Trong cuốn Phát triển năng lực dạy học tích hợp - phân hoá cho giáo viên các cấp học phổ thông, hai tác giả Huỳnh Văn Sơn (chủ biên), Nguyễn Thị Diễm My đã hệ thống hoá các lý luận chung về sư phạm tích hợp và sư phạm phân hoá; chuẩn nghề nghiệp giáo viên và năng lực dạy học tích hợp - phân hoá. Từ đó, trình bày các quan điểm về phát triển năng lực dạy học tích hợp và dạy học phân hoá cho giáo viên tiểu học và trung học [35].

Năm 2007, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức Hội thảo Phân hoá giáo dục phổ thông. Hội thảo đã tập hợp nhiều bài viết về các mặt khác nhau của dạy học phân hoá. như Dạy học phân hóa nhìn từ góc độ của giáo dục học

(Nguyễn Thanh Bình); Dạy học phân hóa – khái niệm và các khía cạnh thể hiện (Nguyễn Thị Kim Dung); Dạy học phân hóa-một vài vấn đề lý luận (Nguyễn Thanh Hoàn); Vài ý kiến trao đổi về dạy học phân hóa (Đào Thị Hồng); Những căn cứ khoa học và các phương thức thực hiện phân hóa giáo dục (Phạm Quang Huân); … Từ đây, những khái niệm, phạm trù, yếu tố xoay quanh dạy học phân hoá ở nhà trường phổ thông dần được làm sáng tỏ [4], [9], [18], [20], [21].

Luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục của tác giả Nguyễn Đắc Thanh về đề tài Rèn luyện kỹ năng dạy học phân hoá cho sinh viên các trường đại học qua tổ chức thực hành sư phạm. Luận án đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn cùng những đề xuất về quy trình rèn luyện kỹ năng dạy học phân hoá cho sinh viên các trường đại học qua tổ chức thực hành sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sư phạm ở các trường đại học, đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học theo hướng phân hoá [37].

Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục Quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hoá ở trường trung học phổ thông Việt Nam hiện nay của tác giả Lê Hoàng Hà là một nghiên cứu chuyên sâu về dạy học phân hoá ở góc độ quản lý giáo dục. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu lý luận, công trình đã cụ thể hóa, làm rõ hơn quan điểm về dạy học phân hóa và quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hoá ở trường THPT. Theo tác giả, để quản lý dạy học phân hoá đạt kết quả, cần khơi dậy, phát huy nội lực tự học của người học và khơi dậy, phát huy được lòng yêu nghề, trách nhiệm với nghề nghiệp của người dạy để dạy tốt, học tốt, hình thành khả năng tự học và học suốt đời của người học. Công trình cũng chỉ ra những bất cập trong quản lý dạy học phân hoá ở các trường THPT hiện nay, phát hiện nguyên nhân của những bất cập đó là sự hạn chế về nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên… đối với việc đổi mới dạy học phân hoá; là tổ bộ môn chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình và giáo viên chưa được bồi dưỡng một cách có hệ thống về quy trình dạy học phân hoá;… Từ đó, công trình đề xuất các biện pháp có tính khoa học và tính thực

tiễn về quản lý dạy học phân hoá ở trường THPT Việt Nam hiện nay (ở cấp vi mô) [14].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Ngoài thể loại sách và luận án, dạy học phân hoá còn là chủ đề của nhiều bài viết trên các Tạp chí Tâm lý học và Khoa học giáo dục. Có thể kể đến Một số vấn đề dạy học phân hoá của tác giả Tôn Thân [39]; Công bằng xã hội và cơ hội học tập trong phân hóa chương trình giáo dục phổ thông của tác giả Đặng Thành Hưng [26]; Dạy học phân hoá dựa vào phong cách học tập của học sinh của tác giả Nguyễn Thị Hồng Chuyên [8]; Tâm lý học với dạy học phân hoá của tác giả Đào Thị Oanh (2015) [31]; …

Như vậy, qua các công trình nghiên cứu đã xuất bản, dạy học phân hoá và quản lý dạy học phân hoá đã được làm rõ ở một số khía cạnh. Trong quá trình nghiên cứu về “Quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn”, tác giả xem thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước là những tài liệu tham khảo giá trị.

Quản lý dạy học phân hóa ở Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn - 3

1.2. Một số khái niệm công cụ

1.2.1. Dạy học và dạy học phân hóa

Dạy học

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về "dạy học".

Theo tác giả Thái Duy Tuyên, dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng), là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo…) để phát triển những năng lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục [41, tr.11]

Theo tác giả Phạm Minh Hạc, “dạy học là một chức năng xã hội, nhằm truyền đạt và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được, nhằm biến kiến thức, kinh nghiệm thành phẩm chất và năng lực cá nhân” [15, tr.8].

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, “quá trình dạy học là một hệ toàn vẹn bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học. Hai hoạt động này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau. Sự tương tác này giữa

dạy và học mang tính chất cộng tác, trong đó hoạt động dạy giữ vai trò chủ đạo” [32, tr.52].

Từ những phát biểu trên có thể khái quát, dạy học bao gồm hai hoạt động: hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Hai hoạt động này có mối quan hệ biện chứng với nhau.

- Hoạt động dạy của thầy điều khiển quá trình trò chiếm lĩnh kiến thức khoa học, bằng cách đó, hình thành nhân cách trò. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy là tổ chức và điều khiển hoạt động học. Hoạt động dạy có chức năng kép là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học.

- Hoạt động học là quá trình, trong đó dưới sự định hướng của người dạy, người học tự giác, tích cực, chủ động, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Hoạt động học có hai chức năng là lĩnh hội tri thức và tự điều khiển.

Dạy học phân hóa

Thuật ngữ “Dạy học phân hóa” được nhà giáo dục người Pháp Louis Legrand đưa ra vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Theo Legrand, vấn đề quan trọng không phải là kiến thức có sẵn được đưa vào môn học trong chương trình nhà trường mà chính là năng lực của từng học sinh trước khối kiến thức đó. Do vậy, chương trình giáo dục phải được thiết kế bằng những kỹ năng cập nhật được thông qua các hoạt động của chủ thể.

Theo tác giả Đặng Thành Hưng, dạy học phân hoá được hiểu là quá trình dạy học có phân biệt những người học hay nhóm người học, chứ không tiến hành giảng dạy chung chung. Đó là chiến lược dạy học dựa vào sự khác biệt cá nhân và nhóm người học, nhằm làm cho chương trình, bài giảng và quá trình dạy học nói chung thích ứng tốt hơn với những khác biệt này, với người học, nhờ vậy có thể đạt hiệu quả cao hơn [24, tr.30].

Theo tác giả Tôn Thân, dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, sở thích, nhu cầu, các điều kiện học tập nhằm tạo ra những kết quả học tập tốt nhất và sự phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng trong giáo dục, tức là quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học [38]

Như thế về mặt khái niệm có thể hiểu rằng, dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của học viên, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các học viên mà tìm cách dạy cho phù hợp.

Dạy học phân hoá có 2 cấp độ thực hiện:

- Phân hóa ở cấp vĩ mô (phân hóa ngoài) là sự tổ chức quá trình dạy học thông qua cách tổ chức các loại hình trường, lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác nhau, xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau (trường chuyên, lớp chọn).

- Phân hóa ở cấp vi mô (phân hóa trong, đặc biệt quan trọng) là tổ chức quá trình dạy học trong một tiết học, một lớp học có tính đến đặc điểm cá nhân học sinh, là việc sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp trong một lớp học, cùng một chương trình và sách giáo khoa.

Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu dạy học phân hoá ở cấp vi mô, là tổ chức quá trình dạy học trong một tiết học, một lớp học có tính đến đặc điểm cá nhân học sinh ở Trung tâm GDNN-GDTX huyện Ba Bể.

1.2.2. Quản lý và quản lý dạy học

Quản lý

Theo tác giả Nguyễn Bá Dương, quản lý là sự tác động qua lại một cách tích cực giữa chủ thể và đối tượng quản lý qua con đường có tổ chức; là sự tác động điều khiển, điều chỉnh tâm lý và hành động của các đối tượng quản lý,

lãnh đạo cùng hướng vào việc hoàn thành những mục tiêu nhất định của tập thể và xã hội [11, tr.55].

Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn, “quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến chuyển của môi trường” [40, tr.43];

Như vậy có thể hiểu quản lý một tổ chức (hoặc hệ thống) là sự tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý (người quản lý tổ chức) đến khách thể quản lý (những người bị quản lý trong tổ chức) nhằm huy động và điều phối có hiệu quả mọi nguồn lực của tổ chức (nhân lực, tài lực và vật lực ...) để đạt tới mục tiêu đã định của tổ chức trong môi trường luôn luôn thay đổi.

Quản lý có các chức năng cơ bản: Kế hoạch hoá; Tổ chức; Chỉ đạo và Kiểm tra - đánh giá.

Quản lý dạy học

Quản lý dạy học là quá trình tác động có mục đích có kế hoạch thông qua cơ chế quản lý của chủ thể quản lý đến người dạy, người học, môi trường dạy học, nhằm đạt được mục đích của quá trình dạy học.

1.2.3. Quản lý dạy học phân hóa

Quản lý dạy học phân hóa trước hết vì yêu cầu của thời đại, đó là dạy học lấy học sinh làm trung tâm hay dạy học hướng vào người học.

Nếu quản lý dạy học là khơi dậy và phát huy nội lực tự học của người học và của người dạy để dạy tốt, học tốt nhằm đạt được các mục tiêu dạy học đã đề ra, thì theo tác giả quản lý dạy học phân hóa xuất phát từ quản lý dạy học thường nhật, ở đây cần lưu ý tới tinh thần phân hóa.

Đó là sự quản lý, khơi dậy, động viên, phát huy nội lực tự học của người học và kích thích, khơi dậy, phát huy được lòng yêu nghề, trách nhiệm với

nghề nghiệp của người dạy để dạy tốt, học tốt, tạo ra khát vọng và năng lực học suốt đời của người học.

Các nhà sư phạm thường nói đến yêu cầu: Làm cho người học biết bắt chước, biết tái hiện, biết tái tạo, biết sáng tạo nội dung truyền đạt. Như vậy, người thầy phải tùy theo sức chứa, sức hút, sức thấm, sức chế biến của trò mà có kế hoạch về nội dung dạy học và phương pháp dạy học cụ thể. Ở Trung tâm GDNN-GDTX, Chủ thể quản lý giáo dục phải kích thích được giáo viên thực hiện những điều này trong dạy học.

Quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hoá là sự quản lý kích thích được giáo viên thực hiện sự phân hóa năng lực, hoàn cảnh, nguyện vọng… để có kế hoạch dạy học thích hợp đối với học viên nhằm nâng cao chất lượng dạy học.

Chủ thể quản lý gắn kết Thầy - Trò làm cho hai nhân tố này tương tác với nhau: Thầy chỉ huy - Trò chấp hành; Thầy thiết kế - Trò thi công; Thầy truyền đạt - Trò lĩnh hội; Thầy cố vấn - Trò sáng tạo

Việc cần làm là tạo ra sự cam kết giữa Chủ thể quản lý giáo dục với giáo viên, giữa Thầy với Trò theo mục tiêu chất lượng của Trung tâm và Chủ thể quản lý giáo dục biết hiện thực được các cam kết này.

1.3. Một số vấn đề về dạy học phân hoá ở Trung tâm giáo dục nghề nghiệp

- GDTX

1.3.1. Các cơ sở của dạy học phân hóa

Cơ sở triết học của dạy học phân hóa

Xét từ các luận điểm của các nhà duy vật biện chứng về con người. Một vấn đề cơ bản của triết học Mácxit thì con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Mặt tự nhiên được quy ước bởi các yếu tố sinh học, tạo nên các cấu trúc sinh thể đa dạng, không đồng nhất cho các cá thể người.

Tư tưởng nhân văn trong những luận điểm triết học trên được phản ánh rõ nét vào giáo dục đào tạo. Một nền giáo dục nhân văn đòi hỏi mục tiêu giáo

dục phải toàn diện, nội dung giáo dục phải thiết thực, đa dạng và tương thích đối với từng loại đối tượng, cấu trúc phải mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và điều kiện của người học.

Cơ sở tâm lý học của dạy học phân hóa

Theo Eysenok, nhân cách của con người được thể hiện phụ thuộc vào các loại thần kinh qua đặc tính của các thái độ hành vi. Căn cứ vào đó, các nhà tâm lý chia thành hai loại nhân cách: hướng nội và hướng ngoại. Đặc điểm cơ bản về các loại hình thần kinh có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách, đến quá trình học của các loại đối tượng và do đó liên quan đến định hướng nghề nghiệp của học viên. Sự phân định hai loại nhân cách chỉ mang tính tương đối. Trong quá trình giáo dục, tự giáo dục, các cá nhân có thể tự điều chỉnh, khắc phục các nhược điểm trong tính cách của mình. Đây là vấn đề mà các nhà giáo dục cần đặc biệt quan tâm.

Học thuyết Đa trí thông minh của Giáo sư Howard Gardner. Theo học thuyết này, Howard Gardner đề xuất 8 loại hình thông minh khác nhau để miêu tả một phạm vi rộng lớn các tiềm năng của con người bao gồm: Thông minh Ngôn ngữ, Không gian, Âm nhạc, Giao tiếp, Toán học, Vận động, Tự nhiên và Nội tâm. Lý thuyết của Gardner đã chỉ ra rằng mỗi người đều tồn tại một vài kiểu thông minh trên. Tuy nhiên, sẽ có kiểu thông minh trội hơn trong mỗi người. Bên cạnh đó, Gardner chỉ ra rằng trong trường học thông thường chỉ đánh giá một học sinh thông qua 2 loại trí thông minh là trí thông minh về ngôn ngữ và trí thông minh về logic/toán học. Điều này là không chính xác. Trường học đã bỏ rơi những học sinh có thiên hướng học tập thông qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp… Đồng thời, lái tất cả mọi học sinh đi theo cùng một con đường và cùng chịu chung một sự đánh giá và phán xét. Nhiều học sinh đã có thể học tập tốt hơn nếu được tiếp thu kiến thức bằng chính thế mạnh của mình. Học thuyết Đa trí thông minh của Howard Gardner đã thay đổi toàn diện

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí