STT
1.3.4.3. Phương pháp dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở trường THCS
* Phương pháp dạy học nhóm
Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; PTNL cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS. Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới.
Để dạy học nhóm đạt hiệu quả PTNL thì GV cần chú ý: PPDH theo nhóm phải phù hợp với nội dung; số học sinh trong một nhóm vừa phải từ 4 đến 6 học sinh; đối tượng nhận thức phải phù hợp với trình độ HS và điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng dạy học phải đảm bảo cho việc dạy học theo nhóm.
* Phương pháp nghiên cứu điển hình
Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đôi khi nghiên cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà không phải trên văn bản viết.
Vì trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống thực, nên nó phải tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình huống khác nhau chứ không phải là một câu chuyện đơn giản.
Để PTNL học sinh, cần lưu ý: Trường hợp điển hình phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ HS và thời lượng cho phép. Tùy từng trường hợp, có thể tổ chức cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp điển hình hoặc phân công mỗi nhóm nghiên cứu một trường hợp khác nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 2
- Dạy Học Ngữ Văn Định Hướng Năng Lực Học Sinh
- Những Vấn Đề Cơ Bản Về Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Định Hướng Năng Lực Học Sinh Ở Trường Trung Học Cơ Sở
- Quản Lý Dạy Học Môn Ngữ Văn Theo Định Hướng Năng Lực Học Sinh Ở Các Trường Trung Học Cơ Sở
- Điều Kiện Của Địa Phương Nơi Nhà Trường Đang Hoạt Động
- Phương Pháp Khảo Sát Và Phương Thức Xử Lý Số Liệu
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
* Phương pháp giải quyết vấn đề
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH đặt ra trước học sinh các vấn đề nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết, chuyển HS
vào tình huống có vấn đề, kích thích họ tự lực, chủ động và có nhu cầu mong muốn giải quyết vấn đề.
Để PTNL học sinh, khi sử dụng phương pháp này cần chú ý: Các vấn đề (tình huống) đưa ra để học sinh xử lí, giải quyết cần thoả mãn các yêu cầu sau phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ nhận thức của HS, gần gũi với cuộc sống thực của HS, tình huống hoặc vấn đề cần có độ dài vừa phải, tình huống hoặc vấn đề phải chứa đựng những mâu thuẫn cần giải quyết, gợi ra cho HS nhiều hướng suy nghĩ, nhiều cách GQVĐ.
* Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống ngữ cảnh xây dựng kịch bản từ việc chuyển thể tác phẩm văn học hoặc xây dựng kịch bản về cuộc đời tác gia, tác giả. Đây là PP nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Các em vừa phát huy được năng lực của bản thân, vừa hiểu sâu hơn bài học. Việc “diễn” không phải là phần chính của PP này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Các yêu cầu khi sử dụng PP đóng vai giúp PTNL học sinh: Tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học; tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép; tình huống phải có nhiều cách giải quyết; tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “kịch bản”, lời thoại; phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai.
* Phương pháp trò chơi
Phương pháp trò chơi là PP tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Phương pháp này có tác dụng PTNL học sinh khi: Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc điểm và trình độ HS, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải không gây nguy hiểm cho HS; học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi; phải quy định rõ thời gian, địa điểm chơi; phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho HS tham gia tổ chức, điều khiển tất cả các khâu; trò chơi phải được luân phiên, thay đổi một cách hợp lí để không gây nhàm chán cho HS; sau khi chơi, GV cần cho HS thảo luận để nhận ra ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
* Phương pháp dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án còn gọi là PP dự án, trong đó HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với thực tiễn, kết hợp lí thuyết với thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao, từ việc lập kế hoạch đến việc thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện dự án. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm. Kết quả dự án là những sản phẩm hành động có thể giới thiệu được.Ví dụ: vẽ theo tranh, sáng tác kịch bản dựa vào văn bản đang học…
Để PTNL học sinh, khi sử dụng PP cần lưu ý: Các dự án học tập cần góp phần gắn việc học tập trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội; có sự kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành; nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của HS; HS được tham gia chọn đề tài, nội dung học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân; nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm GQVĐ mang tính phức hợp.
* Phương pháp trải nghiệm
Học tập qua trải nghiệm là một cách học thông qua làm, với quan niệm việc học là quá trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá, phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có. Phương pháp này yêu cầu người học sử dụng tổng hợp các giác quan (nghe, nhìn, chạm, ngửi…) có thể tăng khả năng lưu giữ những điều đã học được lâu hơn. Các cách thức dạy và học đa dạng của PP có thể tối đa hóa khả năng sáng tạo, tính năng động và thích ứng của người học; giúp PTNL cá nhân và tăng cường sự tự tin. Với PP này, việc học trở nên thú vị hơn với người học và việc dạy trở nên thú vị hơn với người dạy. Tuy nhiên, PP này đòi hỏi nhiều sự chuẩn bị hơn từ người dạy và có thể cần nhiều thời gian hơn để thực hiện với người học; đòi hỏi sự kiên nhẫn và hướng dẫn của người dạy.
Lưu ý, khi sử dụng biện pháp nhằm PTNL học sinh: Để dạy học trải nghiệm đạt hiệu quả thì vai trò của GV hết sức quan trọng. Giáo viên phải là người hướng dẫn, người hỗ trợ thân thiện và giàu kinh nghiệm của HS. Bằng khả năng của mình, GV phải lôi cuốn HS vào hoạt động học tập, tạo ra động lực học tập, giúp các em học từ những trải nghiệm trong ngữ cảnh đời sống. Giáo viên hỗ trợ HS trong việc lập ra các kế hoạch phát triển cá nhân và cung cấp các cách thức tự đánh giá cho HS.
* Phương pháp dạy học phân hóa
Dạy học phân hóa là chiến lược giảng dạy dựa trên nhận thức của GV về nhu cầu của từng cá nhân người học.
Chiến lược dạy học phân hóa đòi hỏi GV phải làm rõ mục đích học tập bắt nguồn từ các tiêu chuẩn về nội dung, nhưng được thực hiện một cách khéo léo để đảm bảo mọi HS đều tham gia và hiểu bài. Bản chất quá trình dạy học phân hóa là điều chỉnh nội dung kiến thức để đáp ứng nhu cầu, khả năng, kinh nghiệm của người học. Ứng dụng một cách khéo léo dạy học phân hóa, người dạy sẽ có nhiều cách thức khác nhau để giúp người học đạt được mục tiêu.
Với hình thức dạy học phân hóa, GV lên kế hoạch và bài giảng sao cho tích hợp nhiều chiến lược giảng dạy nhất có thể, nhằm công nhận các điểm khác biệt của HS trong lớp. Dạy học phân hóa bao gồm các việc: Điều chỉnh nội dung để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm, và mối quan tâm của HS; Đưa ra nhiều cách thức khác nhau để đạt được mục tiêu bài học; Cho phép HS được chứng minh hiểu biết của mình theo nhiều cách có ý nghĩa; Cho phép tồn tại sự đa dạng trong môi trường học tập dựa vào nhu cầu của từng HS; Không đòi hỏi GV phải xây dựng kế hoạch giảng dạy riêng cho từng HS. Thay vào đó, PP này đòi hỏi GV tìm kiếm các kiểu nhu cầu và sau đó phân nhóm HS có nhu cầu hoặc sở thích tương tự để GV có thể đáp ứng nhu cầu của từng nhóm.
* Phương pháp dạy học tích hợp kiến thức liên môn
Dạy học tích hợp, liên môn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học PTNL học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu HS vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi HS phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn trong các nội dung, kiến thức, môn học.
Dạy học tích hợp nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp GDĐĐ, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông…
Dạy học liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc HS phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác.
Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho HS không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau, vừa gây quá
tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
1.3.4.4. Hình thức dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở trường THCS
Tùy theo căn cứ phân loại, chúng ta có các hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Căn cứ theo số lượng, bao gồm các hình thức: Dạy học cá nhân; dạy học theo nhóm; dạy học cả lớp. Căn cứ vào không gian dạy học, gồm: Hình thức dạy học trên lớp; hình thức dạy học ngoài lớp; hình thức dạy học ngoài nhà trường.
* Dạy học trên lớp
Hình thức dạy học trên lớp, GV trực tiếp lãnh đạo tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của HS cả lớp chú ý đến đặc điểm riêng của từng HS.
Hiện nay, hình thức tổ chức dạy học được sử dụng phổ biến nhất là dạy học trên lớp. Tuy nhiên, để thực hiện dạy học theo định hướng PTNL thì ngoài việc tổ chức dạy học trong lớp học với tất cả lớp ra, cần đa dạng hóa các hình thức dạy học khác như:
* Dạy học cá nhân
Là hình thức tổ chức dạy học khi GV tổ chức cho các em HS làm việc độc lập hoặc hướng dẫn cho cá nhân. Dạy học cá nhân giúp phát huy được tính tự lực, tự lập và khả năng tự học của HS; GV có thể bồi dưỡng thêm cho các em học sinh khá giỏi, giúp đỡ cho các em học sinh yếu kém.
Hình thức dạy học cá nhân có thể thực hiện qua việc: Mỗi HS làm việc với phiếu học tập; tiến hành thí nghiệm tự lực để tìm hiểu hoặc đối chứng các hiện tượng; làm trò chơi khoa học; thể hiện tài năng, sở trường (làm thơ, viết văn, kể chuyện, vẽ tranh,…); các hoạt động độc lập khác (sưu tầm tác giả, giai đoạn sáng tác, clip, tranh ảnh…).
* Dạy học theo nhóm
Dạy học theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học khi GV điểu khiển và hướng dẫn các hoạt động học tập theo các tổ, nhóm HS.
Dạy học theo nhóm tạo cơ hội cho HS được tham gia một cách tích cực hơn vào các hoạt động học tập được nghe ý kiến của các bạn, được truyền đạt ý kiến của bản thân trong nhóm để hình thành kỹ năng giao tiếp; được khám phá kiến thức và phối hợp làm việc, được học hỏi từ các thành viên khác trong nhóm… để hình thành năng lực hợp tác. Ngoài ra việc học tập theo nhóm còn hình thành ở học sinh tính tự quản lý, tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm với công việc được giao. Giúp cho các em học sinh nhút nhát có thể hòa nhập với các em học sinh mạnh dạn và có thể trở nên tự tin hơn.
* Hình thức dạy học ngoài lớp
Trong hình thức này, GV tổ chức hoạt động học tập của HS ở bên ngoài lớp học nhằm tạo thuận lợi cho HS được mở rộng và nắm vững kiến thức thông qua các hoạt động và các mối quan hệ đa dạng từ môi trường học tập. Hình thức này có thể tiến hành bên trong hoặc bên ngoài khuôn viên nhà trường.
+ Bên trong nhà trường, hình thức này được thực hiện trong một số trường hợp như: Học sinh tập những bài hát chuyển thể từ ca dao, dân ca, chuyển thể tác phẩm truyện thành kịch biểu diễn trước khối lớp hay biểu diễn trước toàn trường trong các buổi sinh hoạt chuyên đề, buổi tuyên truyền sách và học theo sách, các buổi văn nghệ,…
+ Bên ngoài nhà trường, hình thức tổ chức dạy học này thường được thực hiện qua các hoạt động như: Hội diễn văn nghệ cấp Cụm, cấp thành phố có nội dung chuyển thể từ văn học, tham quan, học tập tại các địa bàn trong thành phố Hạ Long, trong tỉnh Quảng Ninh hoặc ngoài tỉnh để tìm hiểu về tiểu sử tác giả, lịch sử tại di tích; Với định hướng dạy học PTNL hiện nay, xu thế tích hợp liên môn và tổ chức dạy học ngoài nhà trường đang được quan tâm và đưa vào thực hiện trong các nhà trường.
Dạy học ngoài lớp so với dạy học trên lớp là hình thức tổ chức dạy học linh hoạt, tạo ra môi trường học tập đa dạng, kích thích được hứng thú của HS, làm cho nhà trường gần hơn với thực tế cuộc sống.
Mỗi hình thức tổ chức dạy học có vai trò nhất định trong quá trình dạy học ở trường THCS. Hình thức cơ bản là dạy học trên lớp, bên cạnh đó cần tích cực sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhằm tăng hứng thú học tập cho HS, góp phần phát triển năng lực cho các em HS.
1.3.4.5. Kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở trường THCS
Theo quan điểm PTNL, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tác hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong các tình huống khác nhau.
Xét về bản chất thì đánh giá kết quả học tập theo năng lực không mâu thuẫn với đánh giá kiến thức, kỹ năng mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn đánh giá kiến thức, kỹ năng.
Phải đánh giá được những năng lực khác nhau của HS: từ năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Việc đánh giá phải đảm bảo tính khách quan, tính công bằng, tính toàn diện, tính công khai, tính giáo dục và tính phát triển.
Mục tiêu đánh giá
Đánh giá kết quả GD trong môn Ngữ văn nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực và những tiến bộ của HS trong suốt quá trình học tập môn học, để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng HS và nâng cao chất lượng giáo dục.
Nội dung đánh giá
Trong môn Ngữ văn, GV đánh giá phẩm chất, năng lực chung, năng lực đặc thù và sự tiến bộ của HS thông qua các hoạt động nói, nghe, đọc, viết.
Đánh giá hoạt động đọc: Tập trung vào yêu cầu HS hiểu nội dung, chủ đề của văn bản, quan điểm và ý định của người viết; xác định các đặc điểm thuộc về phương thức thể hiện, nhất là về mặt kiểu văn bản, thể loại và ngôn ngữ sử dụng; trả lời các câu hỏi theo những cấp độ tư duy khác nhau; lập luận, giải thích cho cách hiểu của mình; nhận xét, đánh giá về giá trị và sự tác động của văn bản đối với bản thân; thể hiện cảm xúc đối với những vấn đề được đặt ra trong văn bản; liên hệ, so sánh giữa các văn bản và giữa văn bản với đời sống.
Đánh giá hoạt động viết: Tập trung vào yêu cầu học sinh tạo lập các kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, nhật dụng. Việc đánh giá kĩ năng viết cần dựa vào các tiêu chí chủ yếu như nội dung, kết cấu bài viết, khả năng biểu đạt và lập luận, hình thức ngôn ngữ và trình bày,...
Đánh giá hoạt động nói và nghe: Tập trung vào yêu cầu HS nói đúng chủ đề và mục tiêu; sự tự tin, năng động của người nói; biết chú ý đến người nghe; biết tranh luận và thuyết phục; có kĩ thuật nói thích hợp; biết sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ và phương tiện công nghệ hỗ trợ. Đối với kĩ năng nghe, yêu cầu HS nắm bắt nội dung do người khác nói; nắm bắt và đánh giá được quan điểm, ý định của người nói; biết đặt câu hỏi, nêu vấn đề, trao đổi để kiểm tra những thông tin chưa rõ; có thái độ nghe tích cực và tôn trọng người nói; biết lắng nghe và tôn trọng những ý kiến khác biệt.
Đánh giá phẩm chất chủ yếu và năng lực chung trong môn Ngữ văn tập trung vào các hành vi, việc làm, cách ứng xử, những biểu hiện về thái độ, tình cảm của học sinh khi đọc, viết, nói và nghe; thực hiện chủ yếu bằng định tính, thông qua quan sát, ghi chép, nhận xét,...