quản lý riêng, vẫn quản lý chung theo Nghị định về Văn hóa nghệ thuật chung nên không thể đưa ra xử lý được đội nhóm có vi phạm. (CQĐP, nam, 32 tuổi, Lạc Dương).
Như vậy có thể thấy, hợp tác theo nhóm nhỏ có thể tồn tại và duy trì được lâu dài. Điều này cũng có thể xuất phát từ nền tảng văn hóa cộng đồng người Cơ Ho sống co cụm, nhận thức và hành động về sự PTDL tổng thể của điểm đến đối với các bên cũng chưa được đầy đủ, ngay cả với CQĐP.
Bên cạnh đó, trong cộng đồng diễn ra sự mất bình đẳng giữa những người tham gia và không tham gia vào hoạt động du lịch. Đối với các thành viên tham gia trực tiếp (chủ cơ sở cồng chiêng, diễn viên múa, hát, chơi nhạc,...) họ có lợi ích cụ thể từ hoạt động du lịch. Tuy nhiên, đối với những người không tham gia, họ không hưởng lợi từ du lịch nhưng lại phải chịu các tác động tiêu cực từ du lịch (ô nhiễm môi trường, tắc đường, con em họ dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, âm thanh quá lớn, ồn ào) ảnh hưởng đến cuộc sống người dân xung quanh, đặc biệt người già, trẻ nhỏ, người bệnh nên đã tạo ra sự không đồng thuận cho PTDL trong cộng đồng. Vì vậy, vai trò của CQĐP cần phải phát huy mạnh mẽ trong quy hoạch PTDLNT, sự hỗ trợ chính sách, nguồn vốn giúp các hộ có thể tham gia vào hoạt động du lịch một cách chủ động, đồng thời kiểm soát các tác động tiêu cực đến địa phương. Trong đợt phỏng vấn, chúng tôi phát hiện ra một địa bàn du lịch nhỏ nhưng có khá nhiều vấn đề hạn chế, mặc dù đã được định hướng và quản lý từ CQĐP cho PTDLBV nhưng vẫn thiếu các cơ chế, chính sách định hướng cho sự PTDL. Vì vậy, bảo tồn văn hóa được người dân đề nghị gắn với bảo vệ rừng. Điều này cho thấy nhận thức về lợi ích của rừng đối với cuộc sống của người dân đã tăng lên và họ vẫn muốn gắn sinh kế với rừng, nhưng thay vì làm tổn hại đến rừng là bảo vệ rừng cho cuộc sống:
Cần tư vấn nâng cao nhận thức về PTDL cho người đồng bào. Họ bị ảnh hưởng không tích cực từ du lịch. Du lịch mới chỉ mang lại thu nhập và lợi ích cho một bộ phận nào đó thôi. Còn đa phần thì họ bị chịu ảnh hưởng tiêu cực. (Chủ homestay, nữ, 46 tuổi, Lạc Dương).
Quan điểm này được nhiều người trả lời ủng hộ. Những người này thất vọng với những tác động tiêu cực của việc PTDL quá mức và PTDL không được quản lý tốt và không có kế hoạch dẫn đến sự suy giảm về văn hóa và tác động đến các CĐĐP vốn ít được hưởng lợi từ du lịch. Như vậy, từ bức tranh toàn cảnh về thực trạng PTDL tại Lạc Dương có thể nhận thấy thách thức là nhận thức của các bên về hợp tác hạn chế và PTDLNT theo hướng bền vững, CQĐP chưa thể hiện rõ vai trò của mình, thiếu sự kế thừa và truyền lại từ các thế hệ đi trước, thương mại hóa chương trình biểu diễn, thiếu sự kết nối trong cộng đồng và thiếu cơ chế chính sách cho PTDLBV. Đây là những thách thức lớn cần có những giải pháp từ CQĐP để PTDL gắn với công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa bản địa mà đại đa số những người được phỏng vấn tham gia hợp tác nhận ra tầm quan trọng và giá trị của việc bảo tồn môi trường, giữ gìn các giá trị văn hóa ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của họ và cả công việc kinh doanh hiện tại và tương lai.
4.5. So sánh và tổng hợp kết quả nghiên cứu
4.5.1. Các bên liên quan tham gia trong hợp tác phát triển du lịch nông thôn
Có thể bạn quan tâm!
- Nhân Tố Vai Trò Của Người Trưởng Nhóm Và Sự Tham Gia Bình Đẳng Của Các Bên Liên Quan.
- Năng Lực Tham Gia Của Các Bên Liên Quan Về Hợp Tác, Đặc Biệt Là Người Dân Địa Phương
- Hợp Tác Các Bên Liên Quan Trong Phát Triển Du Lịch Nông Thôn Theo Hướng Bền Vững Tại Huyện Lạc Dương
- Tổng Hợp Các Những Hạn Chế Hợp Tác Giữa Các Bên Liên Quan Trong Ptdlnt Tại Hai Huyện
- Đề Xuất Khung Nghiên Cứu Về Quan Hệ Hợp Tác Giữa Các Bên Liên Quan Trong Phát Triển Du Lịch Nông Thôn Theo Hướng Bền Vững
- Quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch nông thôn theo hướng bền vững: Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Lâm Đồng - 21
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
Tại hai địa bàn nghiên cứu, các bên liên quan tham gia trong PTDLNT rất đa dạng bao gồm khu vực công, khu vực tư, CĐĐP, thành viên dự án JICA và các nhà nghiên cứu du lịch. Khu vực công bao gồm các bên liên quan đại diện CQĐP (cấp tỉnh, cấp huyện) bao gồm Sở VH, TT & DL Lâm Đồng và Phòng Văn hóa thông tin huyện Lâm Hà và Lạc Dương, Chủ tịch hoặc Bí thư huyện, Chủ tịch hoặc Bí thư thị trấn, chủ tịch Hội nông dân... Các bên liên quan tại khu vực tư bao gồm đại diện DNDL, cơ sở chế biến trà, trưởng các nhóm cồng chiêng Tây Nguyên, chủ doanh nghiệp ươm tơ dệt lụa,... chủ các nhà hàng, quán ăn, khách sạn, cơ sở homestay, điểm dừng chân tham quan,... Các bên liên quan thuộc CĐĐP gồm người dân địa phương tham gia nhóm cồng chiêng Tây Nguyên (múa, dẫn chương trình, nhạc công, nấu ăn, bán hàng lưu niệm), hướng dẫn viên du lịch, người dân tham gia dự án JICA, nông hộ và các bên liên quan tham gia hoạt động du lịch tại địa phương còn bao gồm đại diện tổ chức JICA, thành viên JICA, nhà nghiên cứu du lịch.
Trong nghiên cứu này định nghĩa hợp tác được giới hạn ở các mối quan hệ lâu dài, trực tiếp thân thuộc với cộng đồng, trên phạm vi lãnh thổ địa phương nên mặc dù các bên liên quan như chính quyền trung ương, cơ quan quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực khác như tài nguyên môi trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn, ủy ban/ban dân tộc miền núi,... có khả năng tác động và có phạm ảnh hưởng lớn đến địa phương, nhưng giới hạn của nghiên cứu này là các quan hệ hợp tác lâu dài, trực tiếp và thân thuộc trên phạm vi lãnh thổ địa phương nên các bên này không được đề cập trong nghiên cứu. Tương tự, khách du lịch cũng có thể ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác trong PTDLNT theo hướng bền vững, tuy nhiên với giới hạn nghiên cứu về hợp tác và hướng tiếp cận nghiên cứu tập trung vào khía cạnh cung du lịch và các quan hệ hợp tác tại địa phương nên bên liên quan này cũng không được đề cập trong nghiên cứu. Hơn nữa, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu (Ladkin và Bertramini, 2010; Pasape và cộng sự, 2013; Wondirad và cộng sự, 2020; Ma và cộng sự, 2020) giúp cho nghiên cứu này xác định các bên liên quan phù hợp.
Từ những kết quả nghiên cứu được đề cập ở trên cho thấy các bên liên quan đều ủng hộ, có vai trò quan trọng góp phần vào sự PTDLNT theo hướng bền vững tại địa phương.
Trong đó, các bên liên quan thuộc khu vực tư hiện đang là các chủ thể chính kết nối với các đối tác và người dân địa phương trong PTDLNT. Họ đóng vai trò quan trọng trong phát triển và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ, tạo ra lợi ích, mang lại lợi ích cho cộng đồng và tạo ra hình ảnh điểm đến DLNT thông qua hợp tác và xây dựng mạng lưới hợp tác giữa khu vực công, tư và CĐĐP. Họ cũng có những nhìn nhận đúng đắn về mục tiêu PTDL theo hướng bền vững thông quan cam kết với CQĐP về thực hành bền vững và phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực này có quy mô vừa và nhỏ. Họ cần sự hỗ trợ về kiến thức và kỹ năng du lịch, đặc biệt sự ủng hộ từ CQĐP cho PTDL.
Đối với bên liên quan là CQĐP có vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy HTCBLQ, phối hợp hợp tác với các bên liên quan thuộc khu vực công và tư thông qua lập kế hoạch PTDL, quy hoạch và quản lý, kiểm soát hoạt động du lịch. Kết quả phỏng vấn cho thấy CQĐP có nhận thức khá đầy đủ về mục tiêu PTDLNT theo hướng bền vững, nhưng họ lại thiếu kế hoạch dài hạn và những chỉ dẫn rõ ràng để thực hiện PTDLBV tại địa phương. Vai trò của CQĐP cũng chưa được phát huy tối đa trong quá trình PTDL.
Đối với CĐĐP, sự tham gia hợp tác trong PTDLNT theo hướng bền vững có ý nghĩa quan trọng bởi giúp cho người dân có thêm việc làm, thêm thu nhập, đặc biệt đối với người dân bản địa Cơ Ho giúp gia tăng sinh kế, giảm đói nghèo. Tuy nhiên, phần nhiều người dân địa phương tham gia vào hoạt động du lịch một cách thụ động, họ không làm chủ được kênh kết nối, họ thiếu kiến thức, kỹ năng du lịch, nguồn tài chính, kỹ năng quản lý kinh doanh du lịch. Vì thế vẫn còn khá nhiều bên liên quan ở cộng đồng nằm bên ngoài của mạng lưới hợp tác.
Với nhà nghiên cứu du lịch gồm các giảng viên đại học, có kinh nghiệm nghiên cứu về lĩnh vực du lịch tại vùng nông thôn, có vai trò nghiên cứu các sản phẩm du lịch và thúc đẩy chính sách của địa phương, chủ động kết nối các bên liên quan khác gồm CQĐP, doanh nghiệp, nông hộ để thiết kế, xây dựng, đổi mới và chuyển giao các sản phẩm du lịch cho CQĐP để nhân rộng mô hình. Tuy họ có thể chủ động kết nối với các bên liên quan, nhưng lại gặp khó khăn về cơ chế chính sách trong triển khai các dự án DLCĐ, đây là ―nút thắt‖ quan trọng đối với các nhà nghiên cứu du lịch. Còn đối với tổ chức JICA hoạt động với mục tiêu xây dựng năng lực cộng đồng, triển khai các khóa đào tạo về du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng. Các bên liên này có năng lực để kết nối và nghiên cứu phát triển sản phẩm.
Bên cạnh các bên liên quan tham gia chính thức, thì còn một bên liên quan tham gia rất tích cực trong PTDLNT, đặc biệt tại huyện Lạc Dương là các nhà môi giới du lịch hay
―cò‖ du lịch. Bên liên quan này tích cực hợp tác với các bên thuộc khu vực tư trong cung ứng sản phẩm và dịch vụ du lịch, đặc biệt trong kết nối với các nhóm cồng
chiêng tại huyện Lạc Dương. Bên liên quan này tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hoạt động PTDLNT tại địa phương như tạo ra sự cạnh tranh, chia rẽ trong cộng đồng, gây ra hình ảnh điểm đến tiêu cực, đồng thời có nguy cơ phá vỡ sự PTDLBV. Do vậy, kiểm soát bên liên quan này là cần thiết. Mặc dù, năm 2019, UBND tỉnh Lâm Đồng đã có văn bản chỉ đạo xử lý tình trạng ―cò‖ du lịch làm ảnh hưởng đến môi trường du lịch, đảm bảo an toàn du lịch và định hướng PTDLBV, tuy nhiên vấn đề này vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.
Nghiên cứu cũng phát hiện vai trò của các Hiệp hội, hội, chẳng hạn như Hiệp hội du lịch tỉnh Lâm Đồng, Hội Lữ hành Lâm Đồng,.. vẫn khá mờ nhạt trong kết nối các doanh nghiệp, nông hộ và người dân trong PTDL vùng nông thôn. Do đặc điểm vùng nông thôn có nhiều điểm bất thuận lợi nên vai trò của các tổ chức này càng cần thiết cho sự liên kết hợp tác PTDL. Chính vì vậy thúc đẩy sự tham gia hợp tác của các Hiệp hội, tổ chức là rất cần thiết để thúc đẩy PTDLNT.
4.5.2. Các hình thức hợp tác và vai trò hợp tác giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch nông thôn
Kết quả nghiên cứu cho thấy cả hai huyện đang tồn tại đa dạng các hình thức HTCBLQ, bao gồm hợp tác theo đối tác kinh doanh, mạng lưới hợp tác, hợp tác công
- tư giữa các bên liên quan, hợp tác giữa CQĐP và CĐĐP trong PTDLNT. Hợp tác tại huyện Lâm Hà chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nông nghiệp trong khi tại huyện Lạc Dương hình thức hợp tác chủ yếu dựa vào tài nguyên văn hóa và tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, kết quả chỉ ra, phần nhiều các quan hệ hợp tác còn đơn điệu, quy mô nhỏ, đơn lẻ, đa số là hợp tác không chính thức và theo mùa vụ.
Hình thức hợp tác giữa CQĐP và doanh nghiệp mang tính hình thức, lỏng lẻo, chưa có chiều sâu và lộ trình đã tạo sự thiếu niềm tin của DNDL vào các quan quản lý địa phương khi thực hiện nhiệm vụ. Hợp tác giữa các DNDL trên cùng địa bàn cũng hết sức lỏng lẻo, tự phát và các sản phẩm du lịch trùng lắp, thiếu quy hoạch từ phía CQĐP. Đây có thể là nguyên nhân của thay vì hợp tác, các DNDL chuyển sang cạnh tranh và không thể tìm được tiếng nói chung trong quá trình PTDL. Đây là nguyên nhân sự phát triển ―thiếu‖ bền vững cho một điểm đến du lịch. Sự phối hợp giữa nhà nghiên cứu và CQĐP cũng gặp nhiều khó khăn về cơ chế chính sách là những rào cản hiện hữu ảnh hưởng đến sự tương tác trong quá trình triển khai và chuyển giao sản phẩm du lịch. Hơn nữa, sự tương tác cũng chỉ dừng lại khi dự án kết thúc. Sự tương tác giữa DNDL trên địa bàn Đà Lạt và người dân địa phương không
cao bởi mạng lưới kết nối để giá trị được tạo ra thì các bên liên quan khác đã cung cấp đủ và không cần thiết phải kết nối và tương tác với người dân địa phương, một phần do tinh thần hợp tác trong cộng đồng không cao. Kết quả này cho thấy, người dân không phải là chủ thể chính trong PTDLNT theo hướng bền vững và lợi ích cho họ rất thấp. Trong khi một trong số những nguyên tắc, mục tiêu của PTDLNT bền vững là đảm bảo chủ động của người dân và giúp phát triển kinh tế nông hộ. Nhìn chung tại hai địa bàn nghiên cứu vai trò tham gia của người dân vẫn còn rất ít ỏi và thụ động.
Tại huyện Lâm Hà, kết quả nghiên cứu đã cho thấy các hình thức hợp tác và các mối quan hệ hiện tại trong PTDLNT cho thấy chưa chú trọng đến sự bền vững, chưa được thúc đẩy cho PTDLBV. Các quan hệ HTCBLQ (giữa CQĐP và doanh nghiệp, quan hệ giữa các doanh nghiệp, doanh nghiệp và nông hộ, CQĐP và nông hộ và giữa các nông hộ với nhau,..) đa phần chưa hỗ trợ cho PTDLNT theo hướng bền vững. Các vấn đề thúc đẩy HTCBLQ trong PTDLBV như quản lý bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao nhận thức cộng đồng về PTDLBV, phát triển sản phẩm đặc thù, xây dựng thương hiệu, quảng bá hình ảnh điểm đến, sự cam kết PTBV, quản lý và kiểm soát PTDLBV chưa được chú trọng thích hợp. Đối với CQĐP, kế hoạch, quản lý và kiểm soát PTDL theo hướng bền vững và sự tích hợp PTDLNT theo hướng bền vững gắn với các chương trình nông thôn chưa được thực hiện và chưa có kế hoạch cụ thể. Các mối quan hệ hiện nay chủ yếu mới giải quyết được bài toán lợi ích kinh tế trước mắt cho các bên, mà chưa tính tới và xem xét thấu đáo lợi ích lâu dài.
Tại huyện Lạc Dương, kết quả nghiên cứu cho thấy, các hình thức HTCBLQ cho thấy đã chú trọng đến PTDLNT theo hướng bền vững. Sự phối hợp giữa CQĐP với DNDL và các nhóm cồng chiêng thông qua các cuộc họp lấy ý kiến, xây dựng cơ chế hoạt động giữa các nhóm, cam kết từ phía CQĐP đối với các doanh nghiệp, nhóm cồng chiêng đã được triển khai từ phía CQĐP nhằm mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bản địa, nâng cao nhận thức người dân về giữ gìn các giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng là những yếu tố giúp phát triển kinh tế địa phương và nâng cao đời sống người dân. Đặc biệt, sự tương tác trong nhóm cồng chiêng rất chặt chẽ dựa vào mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc người Cơ Ho. Đây là điểm khác biệt lớn so với huyện Lâm Hà bởi quan hệ hợp tác huyện Lạc Dương có thế mạnh dựa vào PTDLCĐ. Mối quan hệ này được thúc đẩy trên cơ sở sự tin tưởng, sự gắn kết và có đi có lại trong cả cuộc sống và tham gia vào hoạt động du lịch. Tuy nhiên một khó khăn lớn là dung hòa quan hệ lợi ích giữa các các nông hộ, doanh nghiệp và các nhóm cồng chiêng cho PTDL ở một vị thế cao hơn. Đây
cũng là những khó khăn tồn tại ở nhiều địa bàn trong tỉnh Lâm Đồng. Vì vậy, cần những cách thức để thúc đẩy HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững tại tỉnh Lâm Đồng.
Với các hình thức hợp tác trên, kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò HTCBLQ rất quan trọng trong PTDLNT theo hướng bền vững tại địa phương. Đầu tiên, hợp tác được đồng thuận nhất là chia sẻ lợi ích, sinh kế được cải thiện và gia tăng thu nhập cho thành viên tham gia. Vai trò này được hầu hết các bên tham gia hợp tác trong cả hai huyện đề cập. Thứ hai, hợp tác giúp gia tăng giá trị thông qua nâng cao kiến thức và hiểu biết của các bên liên quan. Kết quả này thể hiện rất rõ từ những lợi ích mang lại từ dự án đã hỗ trợ cho người dân làm du lịch thông qua các lớp tập huấn kiến thức và kỹ năng làm du lịch tại huyện Lạc Dương. Thứ ba, hợp tác giúp đóng góp ý kiến trong lập kế hoạch PTDL. Thông qua ý kiến của các bên, những quy chế áp dụng đối với loại hình du lịch mạo hiểm, tiêu chí nhà vườn và điểm du lịch canh nông và tuyến du lịch canh nông có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự PTDLNT theo hướng bền vững tại địa phương. Tóm lại, HTCBLQ đã chứng minh được những vai trò nhất định trong PTDLNT tại hai huyện nói riêng và tỉnh Lâm Đồng nói chung.
4.5.3. Các nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong phát triển du lịch nông thôn theo hướng bền vững
Từ kết quả ở trên đã xác định có 07 nhân tố thúc đẩy quan hệ HTCBLQ tại hai huyện, cụ thể nhân tố ―Lợi ích‖, ―Thông tin và giao tiếp‖, ―Niềm tin‖, ―Cam kết‖, ―Vai trò người trưởng nhóm và sự tham gia bình đẳng‖. Trong đó nhân tố ―Sự phụ thuộc lẫn nhau‖ và nhân tố ―Có đi có lại có‖ mức độ ảnh hưởng đến các quan hệ hợp tác thấp, chỉ đạt 3.97% và 4.63%. Hơn nữa đề cập ở trên, nhân tố ―Sự phụ thuộc lẫn nhau‖ có ít ảnh hưởng đến quan hệ HTCBLQ vì phần lớn câu trả lời về sự phụ thuộc có ý nghĩa mang tính chất tương trợ, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, các bên luôn chủ động và có sự thay thế đối tác. Do đó nhân tố này không được đưa vào nhân tố thúc đẩy hợp tác. Còn nhân tố ―Có đi có lại‖ là nhân tố giúp nuôi dưỡng, thúc đẩy giao tiếp hiệu quả và là nhân tố có tác động gián tiếp đến quan hệ hợp tác trong PTDLNT theo hướng bền vững. Cụ thể, nhân tố ―Có đi có lại‖ có ảnh hưởng đến thông tin và giao tiếp, trao đổi lợi ích qua đó giúp thúc đẩy hợp tác. Do đó, hai nhân tố này không được đưa vào là nhân tố thúc đẩy trực tiếp quan hệ HTCBLQ.
Với nhân tố ―Vai trò người trưởng nhóm và sự tham gia bình đẳng‖ chỉ xuất hiện tại huyện Lạc Dương nhưng nhân tố này được rất nhiều đồng thuận và chiếm tỷ trọng 7.28%, cao hơn tỷ lệ của nhân tố sự phụ thuộc và sự có đi có lại. Nguyên nhân nhân tố này xuất hiện là tại Lạc Dương các nhóm hợp tác theo nhóm cộng đồng, nhóm dự án cần người chỉ huy, người trưởng nhóm điều hành hoạt động của nhóm, kết nối đối tác bên
trong (người trong dòng họ, gia đình, cộng đồng) và kết nối đối tác bên ngoài (DNDL) tạo thành mạng lưới hợp tác. Đối với mạng lưới hợp tác theo dự án JICA thì đa dạng thành phần đến từ nhiều lĩnh vực, ban ngành khác nhau. Do đó, người trưởng nhóm có vai trò rất quan trọng với việc tổ chức các hoạt động của nhóm, định hướng nhóm hoạt động hiệu quả. Nhân tố ―Quyền lực‖ là một trong số các nhân tố được đề nghị trong mô hình nghiên cứu lý thuyết, tuy nhiên trong kết quả nghiên cứu nhân tố này chỉ xuất hiện 02 lần trong quá trình phân tích dữ liệu về quan hệ hợp tác giữa CQĐP và người dân, do đó, nhân tố này không được đưa vào mô hình nghiên cứu.
Từ lập luận trên, các nhân tố thúc đẩy quan hệ HTCBLQ bao gồm 05 nhân tố, cụ thể nhân tố ―Lợi ích‖, ―Thông tin và giao tiếp‖, ―Niềm tin‖, ―Cam kết‖, ―Vai trò người trưởng nhóm và sự tham gia bình đẳng‖. Mỗi nhân tố này lại có ý nghĩa ảnh hưởng khác nhau đến HTCBLQ. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra các nhân tố có ảnh hưởng đến các nhân tố khác. Chẳng hạn, nhân tố Niềm tin có ảnh hưởng đến các cam kết thỏa thuận hợp tác hoặc nhân tố Có đi có lại có ảnh hưởng đến giao tiếp hiệu quả để thúc đẩy quan hệ hợp tác trong PTDLNT theo hướng bền vững.
30.00%
27.81%
25.00%
21.19%
20.00%
17.88%
17.21%
15.00%
10.00%
7.28%
4.63%
3.97%
5.00%
0.00%
Cam kết Niềm tin Lợi ích Thông tin Có đi có Sự phụ Vai trò
và giao lại thuộc người
tiếp trưởng
nhóm và
sự tham gia bình đẳng
Hình 4.5: Đồ thị các nhân tố thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong PTDLNT
4.5.4. Các nhân tố cản trở hợp tác giữa các bên liên quan theo hướng bền vững
Nghiên cứu đã chỉ ra có 05 nhân tố quan trọng hạn chế HTCBLQ trong PTDLNT tại tỉnh Lâm Đồng. Trong đó, nhân tố ―Năng lực tham gia của các bên liên
quan, đặc biệt người dân địa phương‖ chiếm tỷ trọng cao nhất, giải thích cho 26% trên tổng các nhân tố ảnh hưởng. Điều này đã cho thấy năng lực tham gia HTCBLQ còn rất nhiều hạn chế, cả sự tham gia của CQĐP và CĐĐP. Đối với CQĐP chưa thể hiện đầy đủ vai trò trong quản lý và trách nhiệm phối hợp cho PTDLNT, còn đối với người dân thiếu tinh thần hợp tác và các nguồn lực để tham gia hợp tác PTDL. Đây là nguyên nhân tạo ra những mâu thuẫn sâu sắc trong PTDL tại huyện Lạc Dương. Yếu tố này có nguyên nhân từ nhận thức chưa đầy đủ về hợp tác cho PTDLNT theo hướng bền vững tại hai huyện. Nhân tố ―Thời gian‖ và ―Tổ chức, quản lý và cơ chế chính sách‖ có tỷ lệ bằng nhau, chiếm 20% trên tổng số. Nhân tố thời gian trong HTCBLQ thể hiện thông qua yếu tố mùa vụ gắn với sản xuất nông nghiệp, và đây là yếu tố làm gián đoạn quá trình hợp tác giữa DNDL và nhà vườn trong tổ chức các hoạt động tham quan mua sắm tại vùng nông thôn.
30%
25%
20%
15%
10%
5%
0%
26%
20%
20%
16%
18%
Năng lực
tham gia của các bên liên quan, đặc biệt người dân địa phương
Thời gian
Khả năng tiếp cận
Thông tin va Quản lý và
giao tiếp
cơ chế chính sách
Hình 4.6: Các nhân tố hạn chế quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong PTDLNT
Nhân tố ―Quản lý và cơ chế chính sách‖ cho thấy thiếu sự hỗ trợ nguồn lực từ phía CQĐP cho PTDL, đặc biệt sự tích hợp PTDL trong chương trình nông thôn mới tại địa phương, đồng thời thông qua cách thức quản lý của CQĐP đã tạo ra sự thiếu niềm tin của các bên liên quan vào CQĐP. Đây là nguyên nhân làm cho các bên e ngại khi tham gia các hoạt động phối hợp, hợp tác. Nhân tố ―Thông tin và giao tiếp‖ thể hiện qua rào cản là khoảng cách giao tiếp và giao tiếp thiếu cởi mở, cụ thể được thể hiện qua giao tiếp giữa CQĐP và người dân địa phương và khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ của người dân địa phương. Riêng tại huyện Lạc Dương, do yếu tố người