Từ thực tiễn những cuộc phỏng vấn đối với thành viên JICA về dự án, thông qua các hợp phần tập huấn cho thành viên đã giúp họ nâng cao hiểu biết về các kỹ năng du lịch như hướng dẫn, diễn giải và nâng cao nhận thức của bà con về bảo vệ môi trường rừng và giúp cải thiện sinh kế của người dân,…
Đối với người đại diện CQĐP, sự phối hợp giữa CQĐP và người dân địa phương cũng thể hiện được những lợi ích cho CĐĐP, không phải bằng vật chất cụ thể mà chính bằng những sự hỗ trợ của CQĐP về hướng dẫn cách giải quyết các công việc và những hiểu biết về các văn bản, đường lối chính sách:
Nhà nước không có vấn đề cản trở nhưng đối với người dân, họ lo cuộc sống của họ, có những vấn đề gì họ cũng lên trên này. Tuy nhiên có những cái họ không hiểu về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, họ lên đây, chúng tôi phải gửi các phòng ban liên quan làm việc trực tiếp. giải thích hướng dẫn cho họ làm chứ còn đích thân họ lên trên này thì nhiều cái cũng khó khăn. Nói chung khó ngôn ngữ, văn hóa, đường lối chính sách của Nhà Nước họ chưa hiểu nhiều. (CQĐP, nam, 56 tuổi, Lạc Dương)
Như vậy, có thể thấy lợi ích có được từ trong quan hệ hợp tác, nhất là với cộng đồng dân tộc người Cơ Ho thì được quan tâm chia sẻ bởi người trưởng nhóm hoặc qua sự tham gia trong dự án JICA. Từ đây sự gắn kết cộng đồng cũng được phát huy. Và vì vậy, nhân tố lợi ích là nhân tố chính, nhân tố động lực thúc đẩy mọi người có thể làm việc cùng nhau.
4.4.1.3. Nhân tố niềm tin
Sự tin tưởng là nhân tố quan trọng quyết định một mối quan hệ sẽ tồn tại bao lâu, bền chặt hay lỏng lẻo. Nhìn chung trong hầu hết các mối quan hệ, yếu tố niềm tin có vai trò quyết định liệu rằng các thành viên có tham gia hợp tác hay không. Khi xem xét về quan hệ HTCBLQ, đại diện DNDL cho thấy:
Mức độ tin tưởng cao vì mình đề nghị hợp tác với các bên đó thì những bên được đề nghị cũng có năng lực để tạo ra giá trị cộng hưởng. Tụi em không thảo mai, lâu lâu hứng lên, mà coi trọng giá trị kinh tế. (Giám đốc doanh nghiệp, nam, 33 tuổi, Đà Lạt).
Để có thể hợp tác còn cần có niềm tin vào năng lực của đối tác vì liên quan đến khả năng tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Đây là giá trị cốt lõi của vấn đề. Chẳng hạn, quan hệ giữa DNDL và CQĐP thì đại diện DNDL luôn nỗ lực để xây dựng và duy trì mối quan hệ với CQĐP:
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hợp Tác Giữa Các Bên Liên Quan Trong Phát Triển Du Lịch Nông Thôn Theo Hướng Bền Vững Tại Huyện Lâm Hà
- Các Nhân Tố Cản Trở Hợp Tác Giữa Các Bên Liên Quan
- Hợp Tác Các Bên Liên Quan Cho Phát Triển Du Lịch Nông Thôn Theo Hướng Bền Vững
- Năng Lực Tham Gia Của Các Bên Liên Quan Về Hợp Tác, Đặc Biệt Là Người Dân Địa Phương
- Hợp Tác Các Bên Liên Quan Trong Phát Triển Du Lịch Nông Thôn Theo Hướng Bền Vững Tại Huyện Lạc Dương
- Các Bên Liên Quan Tham Gia Trong Hợp Tác Phát Triển Du Lịch Nông Thôn
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
―Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng sẽ cố gắng kết nối với cơ quan công quyền và địa phương vì tạo ra mối quan hệ, mặc dù nhu cầu không phát sinh lâu dài nhưng vẫn cố gắng duy trì bởi em tin rằng mang lại nhiều lợi ích cho bên em”. (Giám đốc doanh nghiệp, nam, 33 tuổi, Đà Lạt).
Đối với người dân, mối quan hệ giữa họ và trưởng nhóm cồng chiêng đều khẳng định có niềm tin và sự tin tưởng cao. Sự tin tưởng ở đây là cố hữu, bởi nó được hiện diện trong cuộc sống hàng ngày. Sự tin tưởng có thể diễn ra với người trong cùng cộng đồng bởi người đó làm những việc đáp lại được sự mong đợi của họ. Chính vì thế niềm tin được hình thành, cố kết từ nhiều đời thông qua chia sẻ các khuôn mẫu ứng xử, những chuẩn mực, luật tục, những giá trị văn hóa được kết tinh của cộng đồng, do vậy niềm tin trong cộng đồng và được hình thành trong nhóm cồng chiêng gần như tuyệt đối.
Thành viên trong dòng họ, có niềm tin, sự tin tưởng có sẵn trong cộng đồng vì tin tưởng nhau mới tham gia. (Người dân, nữ, 22 tuổi, Lạc Dương).
Có niềm tin rất cao đối với nhóm, em thấy mọi người cũng cảm nhận giống như em. Đi làm tìm niềm vui, một phần kiếm thêm thu nhập của mình. Nên chắc chắn sự thấu hiểu, sự đồng cảm của mọi người trong nhóm hòa hợp với nhau. (Người dân, nữ, 22 tuổi, Lạc Dương).
Sự hòa hợp các thành viên nhóm hợp tác ở đây được người trả lời đề cập qua sự thấu hiểu và sự đồng cảm với nhau. Hoặc khi được hỏi: Nếu thu nhập chỗ khác tốt hơn em có đi làm chỗ khác không? thì người trả lời như sau:
Không, vì em là chỗ người nhà, đi cô chú la cho, gần như toàn người nhà, liên quan đến dòng họ. (Người dân, nam, 33 tuổi, Lạc Dương).
Kết quả này cho thấy niềm tin của thành viên trong nhóm cồng chiêng gần như tuyệt đối. Niềm tin được xây dựng dựa trên quan hệ gia đình, dòng họ có quan hệ ràng buộc và được củng cố bởi nhóm hợp tác.
Khi phỏng vấn về thời gian làm việc tại nhà hàng thì được biết một nhân viên này sau khi tốt nghiệp Đại học năm 2008 đã làm việc ở đây đến giờ. Nhà hàng thường xuyên tổ chức các hoạt động biểu diễn cồng chiêng Tây Nguyên và phục vụ các món ăn của người bản địa cho khách du lịch. Khi đã cưới vợ, cả hai vợ chồng họ đều làm việc trong nhà hàng này, mặc dù thu nhập ở đây không ổn định và cũng chỉ là để phụ thêm cho cuộc sống nhưng vì quan hệ họ hàng ràng buộc nên họ không có ý định tìm một công việc khác có thu nhập tốt hơn. Do vậy, tình huống này đã chỉ ra có sự tin tưởng gần như tuyệt đối giữa người làm và chủ cơ sở trong cùng một dòng họ. Qua đây thể hiện mối quan hệ gắn kết, ràng buộc tình cảm giữa các thành viên trong dòng họ. Khi nghiên cứu về mạng lưới hợp tác tồn tại trong các nhóm cồng chiêng của
người dân tộc Cơ ho, thành viên tham gia nhóm hợp tác không chỉ bao gồm các thành viên trong gia đình mà còn được mở rộng không chỉ theo mối quan hệ dòng họ cha hay mẹ mà còn là mối quan hệ thông gia (người thân bên vợ hoặc chồng). Nghĩa là như trường hợp này, sau khi kết hôn người vợ cũng vào làm và gia đình họ hàng bên vợ cũng được ưu tiên hơn người ngoài dòng họ khi có việc làm.
Không có niềm tin sẽ không hợp tác. (Trưởng nhóm cồng chiêng, nam, 58 tuổi, Lạc Dương).
Kết quả cũng đã khám phá ra rằng nếu không có niềm tin được xây dựng từ trước thì mọi người sẽ không tham gia trong mạng lưới hợp tác. Niềm tin, sự tin tưởng ở đây liên quan đến sự ràng buộc vô hình trong hợp tác và ăn sâu trong tiềm thức của thành viên nhóm cộng đồng. Như vậy, có thể thấy hợp tác trong nội bộ nhóm cồng chiêng rất chặt chẽ và đã có nền tảng sẵn trong cộng đồng người Cơ Ho. Chính nhờ yếu tố này, quan hệ mạng lưới hợp tác trong các nhóm cồng chiêng càng chặt chẽ và phát triển. Đồng thời giúp thúc đẩy sự gắn kết trong cộng đồng.
Như vậy, nhân tố niềm tin là nhân tố quyết định đến quan hệ HTCBLQ trong PTDLNT theo hướng bền vững tại huyện Lạc Dương.
4.4.1.4. Nhân tố cam kết
Quan hệ giữa CQĐP và DNDL đã khẳng định tầm quan trọng của cam kết với việc duy trì mối quan hệ lâu dài. Cam kết cũng đồng nghĩa với việc xây dụng lộ trình, đường đi rõ ràng, đảm bảo phát triển hài hòa về kinh tế, văn hóa và môi trường cho PTDLBV. Người trả lời là đại diện DNDL đã đề cập đến cam kết cho PTDLBV tại địa phương như sau:
Trong thời gian tới đó là sự cam kết lâu dài, yếu tố cam kết rất quan trọng, cần có một chiến lược, nói rõ đích muốn đến là gì, Sau ăn nhậu bắt tay rồi đi về, mọi thứ rơi vào quên lãng… Thực ra, nói là về bề mặt là có. Bề mặt là hình thức tổ chức, các bên đều hướng tới mang lại giá trị về kinh tế, môi trường và văn hóa, tuy nhiên không có cái cam kết, lộ trình rõ ràng, rõ ràng là không có hành động mang tính hiện thực thì nó chỉ là lời nói tính bề mặt, chứ không tạo ra giá trị thực tế. (Giám đốc doanh nghiệp, nam, 43 tuổi, Lạc Dương).
Sự phối hợp giữa CQĐP với các đại diện doanh nghiệp cồng chiêng được thực hiện thông qua các quy định, yêu cầu cam kết cho PTBV đảm bảo được an ninh trật tự xã hội và bảo vệ môi trường sống. CQĐP đã rất chú trọng đến các quy định về bảo vệ môi trường, an ninh, an toàn cho du khách và phát triển hệ thống hạ tầng giao thông thuận lợi đảm bảo định hướng PTBV trên cơ sở các quy định của địa phương. Qua quan sát tại cơ sở hoạt động của các nhóm cồng chiêng đều có các thùng rác được sắp
đặt từ ngoài cổng vào đến khu vực biểu diễn, đồng thời có các nhân viên luôn sẵn sàng dọn dẹp và nhắc nhở khách đến trải nghiệm. Một số cơ sở cồng chiêng còn in quy định dán khu vực ra vào thuận tiện cho khách thấy và yêu cầu thực hiện theo đúng quy định. Đồng thời một số MC của chương trình còn nhắc nhở khách bỏ rác đúng quy định khi bắt đầu chương trình biểu diễn cồng chiêng:
Có cam kết của CQĐP đối với các nhóm cồng chiêng như ban hành văn bản chấn chỉnh giao thông đi lại, nơi để xe. Đảm bảo vệ sinh môi trường, thùng rác, nhà vệ sinh, bếp chế biến thức ăn. Nắm chặt chẽ những nghệ nhân, đảm bảo an ninh an toàn, ngăn ngừa tệ nạn xã hội tiềm ẩn. (CQĐP, 32 tuổi, nam, Lạc Dương).
Đồng thời, CQĐP cũng đã thực hiện những cam kết giữa DNDL trên địa bàn huyện và CQĐP về sử dụng và đào tạo lao động tại chỗ là người Cơ Ho và bảo vệ rừng. Trong quá trình thực hiện, các cam kết chưa được thực hiện đầy đủ từ các DNDL về sử dụng lao động tại chỗ, một phần nguyên nhân xuất phát từ thiếu hụt ―văn hóa hợp tác‖ của người dân địa phương. Yếu tố này lại là rào cản hạn chế hợp tác:
.. việc cam kết khi đăng ký kinh doanh về sử dụng lao động và đào tạo, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương còn hạn chế. Hạn chế có 2 mặt, đối với đồng bào người dân địa phương những lần tham gia làm việc, tác phong công nghiệp chưa hình thành do vậy rất khó khăn cho doanh nghiệp, nên doanh nghiệp không mặn mà gì. Đặc biệt lĩnh vực du lịch có đặc thù, những ngày du lịch chủ yếu tập trung vào ngày nghỉ, nhưng dân ở đây theo đạo tin lành, ngày thứ 7 chủ nhật hầu như đi lễ, nhưng lúc đó du lịch cần nguồn lực làm việc lại thiếu. (CQĐP, 34 tuổi, nam, Lạc Dương)
Đối với các nhóm cồng chiêng thì hầu hết cam kết không bằng văn bản, trên cơ sở của sự tin tưởng trong mối quan hệ trong dòng họ, người thân quen trong bon làng, bạn bè thân thiết nên có mức độ gắn kết cao, mức độ tình cảm, sự giúp đỡ lẫn nhau và sự tương tác qua lại). Bởi vì họ có chung một bản sắc văn hóa, cùng một dân tộc, có sự gắn bó, tình cảm, tương tác với nhau chung trong một cộng đồng và thiết lập quan hệ mạng lưới hợp tác dựa vào tương trợ, sự tôn trọng lẫn nhau. Ở đây cộng đồng người Cơ ho theo chế độ mẫu hệ, nghĩa là con cái theo họ mẹ, sau hôn nhân nam giới về cư trú bên nhà vợ, người thừa kế tài sản là con gái,...tuy thế nhưng quan hệ gắn kết không vì thế mà lỏng lẻo, mà ngược lại quan hệ rất chặt chẽ trong dòng họ.
Gần như chả có cam kết gì hết, có việc cô gọi thì làm không có việc thì thôi. Có việc thì chắc chắn cô gọi lên làm. (Người dân, nam, 33 tuổi, Lạc Dương)
Sự cam kết ở đây liên quan đến niềm tin vững chắc thể hiện mối quan hệ ràng buộc vô hình rất cao trong nhóm và cộng đồng. Nhìn vào sự cam kết này thấy lỏng lẻo
nhưng thực ra rất chặt chẽ bởi mọi người có niềm tin cao với nhau. Bởi với họ, anh em trong gia đình, dòng họ là thứ tình cảm không thể thay đổi được, và nó luôn luôn cố hữu, thấm trong máu, trong tư tưởng của mỗi người. Tuy nhiên, ở đây yếu tố niềm tin không bộc lộ trực tiếp mà ẩn chứa trong mỗi người dân trong cộng đồng. Hơn nữa, kết quả này còn phản ảnh hạn chế nhận thức và trình độ của một cộng đồng do đặc điểm co cụm trong cộng đồng.
Như vậy, nhân tố cam kết cũng là nhân tố có ý nghĩa quan trọng và quyết định để thúc đẩy HTCBLQ.
4.4.1.5. Nhân tố sự phụ thuộc lẫn nhau
Kết quả phỏng vấn cũng chỉ ra mức độ phụ thuộc có ý nghĩa tương trợ trong nhóm cộng đồng để mọi người có thể làm việc cùng nhau. Sự phụ thuộc không cao là do có sự thay thế nhân sự du lịch và cũng trên cơ sở tình cảm, sự hỗ trợ và thời gian để đào tạo thành viên mới tham gia:
Không quá cao, phối hợp thì tốt nhưng không bị phụ thuộc quá nhiều vì mình có sự thay thế. Chẳng hạn anh này đi không được mình có thể kêu anh này, nếu anh này kêu bận nói bạn này đi giùm, không có giành giật quyền lợi ở đây. Họ sống rất tình cảm. Đó là cộng đồng. (Giám đốc doanh nghiệp, nam, 35 tuổi, Lạc Dương).
Và có sự phụ thuộc lẫn nhau trong HTCBLQ tại Lạc Dương, thể hiện:
Sự phụ thuộc lẫn nhau thể hiện gắn kết anh em trong nhóm, tôi là trưởng nhóm MC luôn liên kết anh em tham gia. (Trưởng nhóm cồng chiêng, nam, 52 tuổi, Lạc Dương).
Sự phụ thuộc mang tính chất tương trợ. (Người dân, nữ, 22 tuổi, Lạc Dương).
Ví dụ có hộ bán 30 chóe rượu cho cơ sở cồng chiêng nhưng họ chỉ có 15 chóe, họ không đủ số lượng cung cấp cho khách hàng, còn 15 chóe họ sẽ lấy của hộ khác, sự tương tác bổ sung cho nhau. (Người dân, nữ, 51 tuổi, Lạc Dương).
Nhà quản lý du lịch địa phương cho rằng bản thân họ làm công việc liên quan đến công tác quản lý du lịch theo chủ trương chính sách của nhà nước nên sự phụ thuộc chỉ liên quan đến công tác quản lý diễn ra giữa hai chiều:
Cơ quan quản lý không phải một doanh nghiệp nên là chủ yếu theo dõi quản lý kiếm soát tránh trường hợp vi phạm pháp luật, thứ hai chấn chỉnh các hoạt động định hướng cho các doanh nghiệp đúng pháp luật, chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước… Phụ thuộc quan hệ quản lý thôi, một bên cơ quan quản lý Nhà nước, một
bên là doanh nghiệp hoạt động thuộc quyền quản lý Nhà nước. (Đại diện CQĐP, nam, 34 tuổi, Lạc Dương)
Như vậy, từ kết quả phỏng vấn cho thấy nhân tố sự phụ thuộc lẫn nhau có ý nghĩa mang tính chất tương trợ, giúp đỡ, hỗ trợ, phối hợp để thúc đẩy quan hệ hợp tác trong PTDL tại huyện Lạc Dương.
4.4.1.6. Nhân tố vai trò của người trưởng nhóm và sự tham gia bình đẳng của các bên liên quan.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra trong phần lớn các câu trả lời từ người tham gia trong các hình thức hợp tác đều cho thấy nhân tố vai trò người trưởng và sự tham gia bình đẳng của các bên liên quan xuất hiện nhiều lần trong các câu trả lời, đặc biệt xuất hiện nhiều khi phỏng vấn các chủ thể kinh doanh có quy mô nhỏ tại huyện Lạc Dương. Nếu như tại huyện Lâm Hà không tồn tại nhân tố vai trò của người trưởng nhóm vì hình thức quan hệ theo đối tác phổ biến thì tại huyện Lạc Dương theo kết quả phỏng vấn, đa số những người trả lời đều cho rằng người trưởng nhóm có ảnh hưởng chi phối, dẫn dắt và điều phối hoạt động của nhóm. Điều này thể hiện sự khác biệt đối với nhóm cộng đồng người Cơ Ho. Phong cách làm việc của người trưởng nhóm có thể cải thiện được hiệu quả công việc và hiệu quả hợp tác. Một người trả lời dưới đây cũng đã cho thấy nếu người trưởng nhóm có khả năng tổ chức sẽ khuyến khích các thành viên tham gia hợp tác:
Người quản lý làm việc theo tính chất chia sẻ, họ không áp đặt, nhưng với điều kiện có gì mình phải nói, phải chia sẻ để họ biết, để họ đưa ra các giải pháp, các kế hoạch tiếp theo. (Người dân, nữ, 22 tuổi, Lạc Dương).
Nói chung là người lớn, người trưởng nhóm được tôn trọng hơn. Nói chung mọi người tôn trọng lẫn nhau. Người trưởng nhóm không áp đặt gì đối với nhóm mà chỉ yêu cầu các thành viên trong nhóm nhiệt tình. (Người dân, nữ, 22 tuổi, Lạc Dương).
Trưởng nhóm điều phối, khi mình cần chóe, người ta để lại, bán lại cho mình, mình lấy, mình có nhu cầu gạo men, trấu, mình lấy. Người trưởng nhóm như người phân phối các thứ mà các hội viên cần. (Người dân, nữ, 51 tuổi, Lạc Dương).
Người trưởng nhóm là người tổ chức và đại diện cho nhóm nên luôn nhận được sự tôn trọng trong nhóm hợp tác. Đồng thời người trưởng nhóm cũng đóng vai trò kết nối với người dân địa phương thu mua các sản phẩm do người dân làm ra cung cấp tạo ra sự tương trợ trong du lịch và sản xuất kinh doanh và kết nối các đối tác bên ngoài.
Hoặc, đại diện trưởng nhóm cồng chiêng Tây Nguyên và thành viên hội nấu rượu cần cũng là đại diện CQĐP nhận định:
Tất nhiên người đứng đầu phải chịu trách nhiệm. Giới thiệu quảng bá, giá cả hợp lý là yếu tố quyết định. (Trưởng nhóm cồng chiêng, nam, 58 tuổi, Lạc Dương).
Kinh phí nhiều khi thu nhập ít nhưng chi nhiều. Chấp nhận lỗ vì mọi người, có nó có mình, không lên không phục vụ được. (Trưởng nhóm cồng chiêng, nữ, 58 tuổi, Lạc Dương).
Khi phỏng vấn trưởng các nhóm cồng chiêng Tây Nguyên, bên cạnh những kỹ năng cần có, người trưởng nhóm còn có tinh thần sẻ chia với thành viên nhóm rất cao, đó là chia sẻ lợi ích, chấp nhận lỗ để các thành viên cùng tham gia hợp tác, cùng tham gia các dịch vụ tạo nên chương trình biểu diễn cồng chiêng hoàn chỉnh phục vụ khách du lịch. Chính sự sẻ chia của người trưởng nhóm với các thành viên nhóm trong những thời điểm ít khách đã tạo ra sự gắn kết, khuyến khích các thành viên thêm nhiệt huyết để tham gia, sự gắn kết lâu dài, nâng cao sự hài lòng hợp tác và không xảy ra xung đột về lợi ích giữa họ. Thêm nữa, đối với cộng đồng người dân tộc Cơ Ho, người trưởng nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động nhóm. Bởi có một vài trưởng nhóm cồng chiêng là già làng nên vai trò và uy tín của họ rất lớn, chi phối hoạt động của nhóm và hoạt động trong cộng đồng. Điều này xuất phát từ thực tế mỗi nhóm cồng chiêng khi thành lập họ hoạt động như một doanh nghiệp cộng đồng có quy mô nhỏ, chia sẻ lợi ích, ngoài lợi ích cho chủ cơ sở, lợi ích còn được chia sẻ cho bà con trong dòng họ, người thân quen và bạn bè. Người trưởng nhóm có vai trò điều hành toàn bộ các hoạt động của nhóm. Mặc dù vậy nhưng người trưởng nhóm cần được phát triển thêm các kỹ năng, khả năng quản lý điều hành hoạt động nhóm.
Người trưởng nhóm còn là đại diện của nhóm kết nối với đối tác bên ngoài, CQĐP để thúc đẩy hợp tác trong nhóm được tốt hơn; đổi mới, sáng tạo cho sản phẩm du lịch trên cơ sở bản sắc văn hóa của người bản địa Cơ Ho. Một điều quan trọng, người trưởng nhóm đã nhận thức được cần phải nâng cao nhận thức cho người dân bản địa về bản sắc riêng của người Lạch để giữ gìn và phát huy trong cộng đồng:
… liên hệ đối tác mang khách đến chủ yếu là trưởng nhóm. Chỉ đạo quán xuyến, chỉ đạo tất cả các thành viên trong nhóm, tìm tòi sáng tác, tìm tòi cái mới bản sắc đa dạng nhưng phải giữ bản sắc, tìm đối tác mang đến khách. ... Từ trước giờ qua nhiều cuộc họp với lãnh đạo thị trấn, chính quyền, cũng như bên Sở, những đề nghị như là quảng bá sản phẩm quảng cáo hình ảnh, cái phần này chắc chắn người dân phải nâng cao nhận thức bản
sắc riêng của người Lạch thể hiện sự đam mê về nó, từ đó cảm nhận về nó, thì mình mới biết gìn giữ được. (Trưởng nhóm cồng chiêng, nam, 35 tuổi, Lạc Dương).
Qua các hoạt động quản lý và sự thấu hiểu về hoạt động tổ chức của nhóm cồng chiêng, kết quả phỏng vấn đại diện CQĐP cho thấy vai trò và tiềm lực của người trưởng nhóm không chỉ thể hiện trong nhóm mà còn trong cộng đồng do họ có tác động trực tiếp đến quyền lợi thành viên nhóm vì thế nên họ rất có uy tín ở trong nhóm và cộng đồng. Người trưởng nhóm tốt có thể thúc đẩy hợp tác, khuyến khích mọi người tham gia.
Đa số chi phối nhiều nhất qua công việc làm do anh em làm, nên ý kiến của trưởng nhóm, tiếng nói hơn hẳn, có uy tín trong cộng đồng. Vì trách nhiệm quyền lợi trực tiếp tác động trực tiếp như mình quản lý ảnh hưởng gián tiếp. (CQĐP, nam, 32 tuổi, Lạc Dương).
Một người đại diện thuộc khu vực tư cho rằng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa bản địa hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào các trưởng nhóm cồng chiêng tại địa phương. Họ là những người đang góp phần giữ gìn các giá trị văn hóa bản địa trong điều kiện số lượng các hoạt động văn hóa bản địa của người Cơ Ho đang suy giảm. Còn đại diện Sở VH, TT & DL cho rằng vai trò của người trưởng nhóm hợp tác là người được tin tưởng nhất, là người có giao tiếp tốt, có hiểu biết, có kiến thức, và có phương pháp làm việc trên cơ sở sự tôn trọng và sự tham gia bình đẳng của các bên liên quan:
Thống nhất trước khi đi vào làm việc quên hết mình là ai, tranh luận bằng kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn, dựa vào nền tảng kiến thức và hiểu biết của mình. Tất cả các nhóm làm việc khác nhau, từ đó có một người chịu trách nhiệm bảo vệ ý kiến nhóm nhưng là ý kiến của tập thể. Người trưởng nhóm có trách nhiệm thu thập ý kiến anh em, trao đổi, đại diện anh em đứng lên trao đổi, được nhóm tin tưởng nhất. Tham gia nhóm, người trưởng nhóm dường như là người để kết nối, không dùng quyền lực để áp đặt. (Đại diện Sở VH, TT & DL, 46 tuổi, Đà Lạt).
Như vậy, người trưởng nhóm đóng vai trò dẫn dắt hoạt động của nhóm, làm chủ kênh kết nối với người dân địa phương để cung cấp sản phẩm du lịch và kết nối đối tác (DNDL, hướng dẫn viên, CQĐP,..) và củng cố phát triển mạng lưới hợp tác du lịch. Người trưởng nhóm vừa có vai trò duy trì nhóm hoạt động ổn định vừa có vai trò tìm kiếm đối tác và khách hàng để đảm bảo có thu nhập thêm cho con cháu trong dòng họ và phối hợp chặt chẽ với CQDDP để thực hành bền vững. Qua phỏng vấn, chúng tôi cũng đã phát hiện ra có một nhóm cồng chiêng hoạt động phục vụ khách du lịch gần như 365 ngày/năm, đã mang lại thu nhập cho các thành viên trong nhóm khá ổn định