chỉ là một bước đơn giản. Chẳng hạn: Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại, nghiên cứu về những nhà văn, nhà thơ đương thời vừa có chất phê bình nhưng giá trị nghiên cứu vẫn rò nét vì chất khái quát của người viết. Nghiên cứu văn học và phê bình văn học đều phải lấy lý luận làm nền. Sự phát triển mạnh mẽ của nghiên cứu nằm chung trong hệ thống nghiên cứu, lý luận, phê bình chứng tỏ nền văn học dân tộc đã phát triển tới mức toàn diện.
Trên cơ sở tích hợp và tiếp biến những khái niệm nghiên cứu văn học trong các công trình đã nêu trên, chúng tôi quan niệm: hoạt động nghiên cứu văn học là quá trình xem xét, tìm hiểu, đánh giá một cách hệ thống, toàn diện các tác gia, tác phẩm, hiện tượng văn học quá khứ hoặc đương thời đã có độ lùi thời gian nhất định (kể cả văn học trong nước và nước ngoài).
4.3.2. Khái niệm “Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn
học”
Đến đầu thế kỷ XX, hiện đại hóa văn học đã trở thành một yêu cầu tất yếu của lịch sử văn học Việt Nam. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục … lúc này đã hội đủ các yếu tố nội sinh và ngoại nhập, tạo nên các nhân tố thúc đẩy văn học phát triển theo hướng hiện đại hóa.
Nói đến văn học hiện đại là nói đến văn học phát triển trong môi trường kinh tế tư bản chủ nghĩa, có sự hình thành giai cấp tư sản, giai cấp vô sản …. Như vậy, khái niệm hiện đại hóa xuất hiện và được sử dụng khi con người bước sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản và ở mỗi lĩnh vực nó mang một nội hàm khái niệm khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà: Hiện đại hóa trong chừng mực nhất định, nó đồng nghĩa với khái niệm phương Tây hóa, là quá trình thu nhận những ảnh hưởng của văn học phương Tây để có những đặc điểm của văn học phương Tây [192, tr.40].
Khái niệm hiện đại hóa văn học ở đây được sử dụng theo nghĩa phân
biệt với khái niệm văn học trung đại. Đó là quá trình chuyển từ loại hình văn học cũ sang loại hình văn học mới hiện đại hơn, nghĩa là, khi mà nền văn học phong kiến không còn thích ứng nữa thì yêu cầu của xã hội là phải đổi mới để thực hiện chức năng phản ánh hiện thực một cách đầy đủ và hiệu quả hơn. Văn học hiện đại hóa là văn học đã thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đại để xác định một hệ thống thi pháp mới, thi pháp văn học hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu phản ánh xã hội mới và đáp ứng thị hiếu mới của công chúng thời điểm ấy.
Có thể bạn quan tâm!
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 1
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 2
- Những Biến Động Lớn Của Xã Hội
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 5
- Quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - 6
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
Như vậy, hiện đại hóa là quá trình tất yếu của một nền văn học. “Nó xuất phát từ nhu cầu sáng tạo nội tại của văn học, từ tác động của hoàn cảnh xã hội, từ đòi hỏi của công chúng và từ kết quả của sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, các dân tộc” [192, tr.40].
Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 tất nhiên không phải một sớm một chiều mà nó là cả một quá trình diễn ra liên tục không ngừng. Ở giai đoạn ba mươi năm đầu thế kỷ (từ 1900 đến 1930) là bước chuẩn bị cho sự chuyển mình của văn học, trong đó mười năm cuối của giai đoạn này, công cuộc hiện đại hóa văn học đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận. Giai đoạn từ 1930 đến 1945, quá trình hiện đại hóa nền văn học được đẩy lên một bước mới với nhiều cuộc cách tân văn học sâu sắc và toàn diện, đặc biệt là sự ra đời các thể loại văn học mới. Đến đây, sự đổi mới đã thể hiện một cách toàn diện, triệt để. Nền văn học Việt Nam lúc này, nhìn tổng thể, đã mang tính hiện đại từ nội dung đến hình thức, không còn lạc điệu trong văn học của thế giới hiện đại.
Đặt vào bối cảnh chung của quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam giai đoạn này, theo chúng tôi: hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học là sự thay đổi về tư duy của các nhà nghiên cứu để từ đó có sự đổi mới trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu cũng như phương pháp nghiên cứu nhằm
đánh giá đối tượng một cách khách quan, khoa học và toàn diện. Đó là một quá trình diễn ra liên tục, không ngừng, khiến văn học nói chung và hoạt động nghiên cứu văn học nói riêng dần dần mang những đặc điểm và tính chất riêng của văn học đương thời so với văn học thời trung đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Đây là đề tài nghiên cứu một giai đoạn trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, nhằm tổng kết và đánh giá những thành tựu và hạn chế của công cuộc hiện đại hoá hoạt động nghiên cứu văn học, do vậy, phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận án này là phương pháp nghiên cứu văn học sử. Sử dụng phương pháp này đòi hỏi người thực hiện phải đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với môi trường văn hóa, xã hội, lịch sử giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đồng thời phải xem xét và khảo sát chúng trong sự vận động chung của văn học Việt Nam trong thời điểm nghiên cứu.
5.2. Ngoài phương pháp chủ yếu nói trên, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp khác như sau:
- Phương pháp hệ thống loại hình được dùng để hệ thống hóa và phân loại các công trình nghiên cứu, từ đó xác định vị trí và ý nghĩa của các công trình nghiên cứu. Qua đó, có thể phân ra các xu hướng, trường phái để đánh giá những đóng góp của chúng về mặt lý thuyết và phương pháp.
- Phương pháp lịch sử loại hình: phương pháp này cho phép chúng tôi nghiên cứu so sánh các đối tượng cùng loại trong lịch đại và đồng đại để thấy được tính hiện đại của chúng.
Đồng thời phối hợp nhiều thao tác như: phân tích, tổng hợp, phân loại…
6. Đóng góp của luận án: hoàn thành đề tài, chúng tôi dự kiến sẽ có những đóng góp như sau:
6.1. Trình bày một bức tranh tổng thể về hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, với những điểm nhấn về tiến trình hiện đại hoá hoạt động này.
6.2. Đánh giá thành tựu và hạn chế của công tác nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX; rút ra được những kinh nghiệm cần thiết về phương pháp đổi mới nghiên cứu văn học; đóng góp và gợi ý cho việc soạn thảo lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
6.3. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo giảng dạy về lĩnh
vực nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận cũng như Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận án gồm ba chương:
Chương 1- Những tiền đề cơ bản của quá trình hiện đại hóa hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam
Chương 2- Những chặng đường phát triển của hoạt động nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Chương 3- Những đổi mới về phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Chương 1 - NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM
1.1. Những tiền đề lịch sử - xã hội
1.1.1. Quá trình xâm lăng của thực dân Pháp và những chuyển biến về
thể chế chính trị
1.1.1.1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng, báo hiệu cuộc xâm lược chính thức nước ta. Tính từ khi đồn Kỳ Hòa thất thủ (1861), Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông (1862) rồi chiếm cả sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), cho đến hòa ước Patenôtre (1884) thì Việt Nam hoàn toàn mất hết độc lập chủ quyền. Từ đó đã dẫn đến nhiều chuyển biến cực kỳ quan trọng trong xã hội: nước Việt Nam phong kiến nông nghiệp trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến với hai tầng áp bức: thực dân Pháp và vua quan, địa chủ phong kiến. Chính biến cố trọng đại này đã làm biến đổi sâu xa mọi phương diện, trong đó có văn học nghệ thuật, của đất nước ta.
Ngay sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân Nam Kỳ đã không ngừng đứng lên chống Pháp, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Hữu Huân, Vò Duy Dương, Nguyễn Trung Trực… Trong hoàn cảnh bấy giờ, tuyệt đại đa số nhân dân không hợp tác với chính quyền địch. Có nhiều nơi, người dân tự tay đốt nhà cửa, vườn tược. Những người không có điều kiện đi theo nghĩa quân thì họ cũng “tị địa” ra khỏi “đất quỷ” (vùng đất bị Pháp chiếm - Dương Thu Thủy).
Tuy nhiên, các phong trào kháng Pháp lần lượt đi vào bế tắc, thất bại. Năm 1896, với sự tuẫn tiết của Phan Đình Phùng, phong trào chống Pháp dưới lá cờ Cần Vương rầm rộ suốt mấy mươi năm nổ ra ở hầu hết các tỉnh đã chấm dứt. Như vậy đến lúc này, về căn bản, thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc “bình định” Việt Nam về mặt quân sự, và trên cơ sở đó, họ đã có
thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương
nói chung.
Chính sách khai thác thuộc địa về kinh tế được thực hiện một cách triệt để như độc chiếm thị trường, mua rẻ nông phẩm; độc quyền ngoại thương và các ngành kinh doanh quan trọng (khai mỏ, giao thông, làm muối, nấu rượu, thuốc phiện,…). Độc quyền ngân hàng đầu tư vào các ngành có lợi cho việc vơ vét tài nguyên, hàng hóa để xuất khẩu.
Với mục đích biến Việt Nam trở thành một bộ phận của “Pháp quốc hải ngoại”, thực dân Pháp đã đầu tư với tốc độ nhanh, qui mô lớn vào các ngành kinh tế ở Việt Nam. Theo thống kê: chỉ trong vòng 6 năm (1924 - 1929), số vốn đầu tư vào Đông Dương, chủ yếu là vào Việt Nam, lên khoảng 4 tỷ phrăng (Lịch sử 12 - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2008). Trong đó, vốn đầu tư vào nông nghiệp, chủ yếu là cho đồn điền cao su. Diện tích trồng cao su được mở rộng, nhiều đồn điền cao su xuất hiện như: đồn điền cao su Cam Tiêm, đồn điền cao su Phú Riềng... Pháp còn mở rộng một số ngành công nghiệp như: dệt, muối, xay sát… Các nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy cưa Bến Thủy … lần lượt ra đời. Nhà máy dệt Nam Định được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để trở thành một trung tâm dệt nổi tiếng trên toàn quốc với một tổ hợp nhà máy khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối. Tư bản Pháp rất coi trọng đến việc khai thác mỏ, trước hết là than. Công ty than Hòn Gai thành lập năm 1888, một năm sau tổng sản lượng than ở Đông Dương đã lên tới 260.000 tấn. Từ năm 1890 đến 1904 các công trình khai thác than càng được đẩy mạnh. Ngoài than, các cơ sở khai thác thiếc ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), bạc ở Ngân Sơn (Bắc Cạn), vàng ở Bồng Miêu (Quảng Nam)… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác. Giao thông vận tải, đã được thực dân Pháp đầu tư xây dựng ngay từ đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ thuật. Ngoài các tuyến đường sắt ở
miền Nam, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng các tuyến đường sắt như Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm. Đường bộ cũng tiếp tục được xây dựng. Nếu như đường sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh tế đối nội, thì đường thủy đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đối ngoại. Vì thế, cùng với các hải cảng đã xây dựng trong đợt khai thác thuộc địa lần thứ nhất như cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, thực dân Pháp tiếp tục cho xây dựng các hải cảng mới như Hòn Gai, Bến Thủy... Mạng lưới vận tải đường sông vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn lợi dụng quyền thống trị về chính trị để duy trì bộ máy quan liêu, cường hào và những luật lệ của chế độ phong kiến để ra sức chiếm đoạt ruộng đất, tăng cường bóc lột sưu thuế, sưu dịch, làm phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt để thực hiện công cuộc khai thác tại thuộc địa và xuất khẩu lao động sang Pháp. Kết quả của các chính sách ấy là nền kinh tế cổ xưa bị phân giải, lưu thông hàng hóa phát triển, nước ta bị kéo vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Thực dân Pháp biến Việt Nam từ một nước đang theo chế độ “quân chủ” thành một nước theo chế độ “thực dân nửa phong kiến”.
1.1.1.2. Sau khi đặt xong bộ máy chính quyền ở Việt Nam, thực dân Pháp bắt đầu thực hiện âm mưu và chính sách Pháp hóa đối với dân tộc ta. Với chính sách chia để trị, thực dân Pháp chia Việt Nam ra làm ba kỳ riêng biệt (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Mỗi kỳ có một chính sách luật lệ riêng, trong đó Nam Kỳ trở thành xứ thuộc Pháp với những nét riêng về chính trị, kinh tế, xã hội rộng, thoáng hơn so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Pháp tăng cường tuyển mộ lính và khai thác kinh tế thuộc địa, lập nhiều đồn điền ở Nam Bộ, xây dựng cảng Sài Gòn, mở đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, xây cầu trên sông Vàm Cỏ, lập nhiều công xưởng như đóng tàu, nhà máy xay lúa ở Sài Gòn, Chợ Lớn…. Những cơ sở kinh tế ban đầu này khiến nền kinh tế Nam Kỳ
phát triển mạnh mẽ, tạo độ chênh lớn giữa ba miền Bắc - Trung - Nam.
Cùng với những chính sách về kinh tế, thực dân Pháp còn tiến hành nhiều chủ trương và biện pháp chính trị vừa mang tính chất cải lương vừa thể hiện sự giả dối bịp bợm, nhằm mục đích củng cố quyền vị thống trị của chúng. Chẳng hạn: thành lập các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Các phòng thương mại và canh nông của những thành phố lớn được mở rộng cho người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp lập ra Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư vấn về vấn đề kinh tế, tài chính trong Liên bang Đông Dương. Ở khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến hành "cải lương hương chính” nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của làng xã, loại bỏ dần tính chất tự trị của nó. Mặc dù, trên nguyên tắc, công cuộc “cải lương hương chính” vẫn chấp nhận cơ chế quản lý làng xã cổ truyền, nhưng trong một chừng mực nào đó thực dân Pháp đã đạt được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào công việc làng xã bằng cách kiểm soát nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã. Song song đó, chúng đẩy mạnh chính sách văn hóa ngu dân và tư tưởng nô dịch đối với quần chúng nhân dân. Chúng mở nhiều nhà tù hơn trường học, chúng bắt học sinh từ 18 tuổi trở lên ở các trường tư thục phải đóng thuế thân để hạn chế việc học tập của con em tầng lớp nghèo. Chính quyền thực dân cấm nhân dân ta đọc và lưu hành những tác phẩm có nội dung, tư tưởng tiến bộ. Trước thế chiến thứ II, do phong trào đấu tranh của quần chúng, chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp có lúc được nới lỏng, nhưng từ khi đại chiến thế giới lần thứ II sắp bùng nổ, lệnh kiểm duyệt của chúng trở nên gắt gao hơn. Mặt khác, chúng cho du nhập những sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy của phương Tây vào Việt Nam. Chúng lại không ngừng rêu rao quan điểm: thực dân Pháp sang Việt Nam với sứ mệnh đem ngọn đuốc văn minh của nước mẹ Đại Pháp sang truyền bá cho nhân dân Việt Nam. Và để đạt được mục đích, chúng chủ trương mị dân như: