Một Số Giải Pháp Về Phòng, Chống Rửa Tiền Ở Việt Nam Trong Thời Gian Tới


chống rửa tiền mới có hiệu lực, tuy nhiên các tổ chức tài chính còn gặp nhiều khó khăn trong việc thi hành một số quy định mới về phòng, chống rửa tiền như nhận biết và cập nhật thông tin khách hàng đối với chủ sở hữu hưởng lợi, người thân của cá nhân có ảnh hưởng chính trị, phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro và cách xử lý việc từ chối khách hàng ... Nhiều quy định theo hướng tiếp nhận các khuyến nghị theo so với chuẩn mực quốc tế về khủng bố và chống tài trợ khủng bố, do vậy chưa phù hợp với Việt Nam. Ngược lại, nhiều quy định lại chặt chẽ hơn nhiều chuẩn mực quốc tế và các quy định tại các quốc gia tuân thủ FATF. Các đối tượng báo cáo đã có nhiều đề nghị giải đáp cách thức xử lý các quy định trong quá trình thực thi Luật phòng, chống rửa tiền, Nghị định 116 và Thông tư 35 nêu trên.

Hai là, nhận thức về vai trò, nhiệm vụ phòng, chống rửa tiền của các đối tượng báo cáo còn hạn chế dẫn tới việc triển khai công tác phòng, chống rửa tiền chưa đồng đều; nhiều báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các TCTD chưa đảm bảo đầy đủ thông tin theo quy định vì khách hàng không cung cấp; việc thẩm định tính bất thường trong giao dịch của bộ phận chuyên trách phòng, chống rửa tiền tại các tổ chức tín dụng còn bất cập dẫn đến việc xử lý thông tin giao dịch đáng ngờ chậm và khó đưa ra nhận định.

Ba là, nhân sự phụ trách công tác phòng, chống rửa tiền của các đối tượng báo cáo là kiêm nhiệm, khó khăn cho việc giám sát và thực hiện nhiệm vụ.

Bốn là, hệ thống công nghệ thông tin tại các ngân hàng hiện chưa đáp ứng tối ưu cho công tác phòng, chống rửa tiền. Việc rà soát khách hàng còn thủ công, chưa được tự động hóa. Việc đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin cần nhiều chi phí và thời gian.

Năm là, các đối tượng báo cáo mới chỉ dừng lại ở tập huấn nghiệp vụ có xen kẽ nội dung về công tác phòng, chống rửa tiền cho cán bộ nhân viên mà chưa tổ chức lớp đào tạo sâu rộng về công tác phòng, chống rửa tiền riêng.


Sáu là, lực lượng cán bộ làm công tác thu thập, phân tích và xử lý thông tin quá mỏng, trong khi báo cáo giao dịch đáng ngờ đang xử lý ngày càng nhiều và phức tạp hơn. Số lượng cán bộ làm công tác thu thập và xử lý thông tin thuộc Cục Phòng, chống rửa tiền còn ít và phần lớn là cán bộ trẻ nên ngoài việc xử lý công việc còn phải thường xuyên học tập, nâng cao kiến thức để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong ngành ngân hàng. Hơn nữa, năm 2013, Cục Phòng, chống rửa tiền của NHNN đã tham mưu xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền, Nghị định hướng dẫn thi hành và Thông tư hướng dẫn nên ngoài việc xử lý thông tin, cán bộ làm công tác phòng, chống rửa tiền còn phải dành nhiều thời gian cho việc xây dựng các văn bản pháp luật phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền.

Bảy là, nhiều vụ việc được yêu cầu ngoài chức năng, nhiệm vụ của Cục Phòng, chống rửa tiền: Trợ giúp rà soát, cung cấp thông tin theo yêu cầu của các đơn vị công an trong quá trình điều tra các vụ án riêng biệt hoặc thông tin, phục vụ công tác nghiệp vụ về kinh tế, hình sự hoặc phục vụ an ninh, chính trị quốc gia. Công việc này đòi hỏi bộ phận thu thập, xử lý thông tin phải đầu tư thời gian, nhân lực quá nhiều nên ảnh hưởng lớn đến tiến độ xử lý báo cáo giao dịch đáng ngờ, đến việc thực thi nhiệm vụ chính của Cục Phòng, chống rửa tiền.

Tám là, việc thực hiện các yêu cầu tra soát và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng từ các cơ quan công an còn nhiều bất cập về khía cạnh pháp lý và việc thực thi chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

3.6.3. Nguyên nhân của những tồn tại

Một là, đối với việc triển khai công tác phòng, chống rửa tiền tại các đối tượng báo cáo còn nhiều tồn tại, bất cập. Hầu hết các đối tượng báo cáo đều có quy định nội bộ về phòng, chống rửa tiền, nhưng việc triển khai, kiểm tra việc thực hiện quy định này còn rất hạn chế. Một số đối

Phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng tại Việt Nam - 10


tượng báo cáo có mạng lưới rộng gồm hội sở, các chi nhánh, phòng giao dịch nhưng công tác phòng, chống rửa tiền mới được triển khai ở hội sở và nhiều khi mang tính đối phó.

Hai là, nhận thức của phần đông người dân trong xã hội cũng như một số cán bộ của các cơ quan nhà nước về vấn đề rửa tiền vẫn còn hạn chế. Nhiều đối tượng báo cáo như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm... vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa tiền. Các đối tượng này chưa chú trọng đến công tác nhận biết khách hàng, công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ và công tác đào tạo,...

Ba là, nhân lực phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền còn thiếu và chưa được đào tạo đầy đủ. Hiện nay ngoài Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có bộ phận chuyên trách phòng, chống rửa tiền, còn các bộ, ngành khác có trách nhiệm tham gia vào đấu tranh chống rửa tiền như Bộ Công an, Viện kiểm sát, Tòa án chưa có bộ phận chuyên trách. Vì công tác phòng, chống rửa tiền còn khá mới ở Việt Nam, nên kinh nghiệm của Việt Nam trong công tác này chưa nhiều.

.


CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

4.1. Bối cảnh và triển vọng hoạt động rửa tiền ở Việt Nam

Về bối cảnh thế giới, theo tinh thần các văn kiện Đại hội XI của Đảng, trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, dân tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rò hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân


tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt, nhất là trên vùng biển Đông. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.

Nhìn chung, có thể nói, thế giới đang và sẽ tiếp tục bị chi phối bởi những xu hướng lớn, theo đó, nền đại công nghiệp cơ khí, với các công nghệ và mô hình tiêu dùng truyền thống, đang đi đến những giới hạn khách quan về tài nguyên, về môi trường, về chi phí sản xuất, về thị trường và xã hội mà chúng dựa vào, cũng như những giới hạn nội tại của bản thân các công nghệ và nền sản xuất đó. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 3 ba đang định hình với các đặc trưng mới về chất như có tính tự động hoá cao, là sự kết hợp giữa công nghệ vi điện tử, công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ và đáy đại dương cùng các công nghệ chế biến sâu không có phế liệu; sử dụng nguyên vật liệu mới có khả năng tái sinh, không gây ô nhiễm môi trường; làm hài hoà quan hệ giữa con người với thiên nhiên, đặt con người vào trung tâm của sự tăng trưởng, trí tuệ hoá lao động và giải phóng con người khỏi lao động đơn điệu, độc hại cũng như những giới hạn sinh lý cá nhân khách quan...

Nói cách khác, thế giới đang đứng trước nhu cầu và khả năng hướng đến một mô hình kinh tế công nghệ nhân đạo hơn, trí tuệ hơn, có khả năng tự bảo vệ, vì thế hiệu quả và bền vững hơn. Cùng với việc tạo ra những công nghệ mới, đang xuất hiện những điều kiện kinh doanh và cơ cấu tiêu dùng mới. Thế giới ngày càng trở thành mạng lưới dày đặc và nhạy bén hơn với các quan hệ giao tiếp và tương tác lẫn nhau, làm tăng các cơ hội cho tự do cá nhân, làm xói mòn các lợi thế cũ và tạo ra những sức mạnh, cùng lợi thế mới. Cả ở cấp vi mô lẫn vĩ mô đang khởi động những quá trình tái cấu trúc vĩ đại chưa từng có trong lịch sử và ai thấy trước và thích ứng tốt tương lai, người đó sẽ chiến thắng.


Trong thời gian tới, Việt Nam phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chú trọng xử lý và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đặc biệt, cần tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu: ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tạo bước tiến rò rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tiếp tục giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu. Tăng cường


tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ thuật, từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại


nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.

Đặc biệt, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, ký kết và triển khai các cam kết hội nhập mới trong khuôn khổ các FTA, thúc đẩy quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế, với 3 trọng tâm tái cơ cấu; Trong bối cảnh hệ thống ngân hàng vẫn còn hạn chế thì hệ thống chuyển tiền khác lại được sử dụng rộng rãi. Do vậy, nguy cơ rửa tiền thông qua con đường này rất lớn.

Việt Nam đã và đang thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, đã và đang có nhiều cải cách về chính sách để tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, tuy nhiên đây cũng là nhân tố tiềm ẩn nguy cơ tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố, lợi dụng Việt Nam để thực hiện hành vi phạm tội.

Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống công nghệ thông tin; dân số đông và có thói quen sử dụng tiền mặt, theo thống kê thì tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông vẫn chiếm 20- 22% tổng khối lượng tiền lưu chuyển; có vị trí địa lý gần khu vực các nước có vấn nạn về sản xuất ma túy (khu vực tam giác vàng); có chỉ số quốc tế về tính minh bạch thấp (xếp thứ 121/180) do vấn nạn về tham nhũng chưa được kiểm soát có hiệu quả. Từ những đặc điểm trên rất dễ tạo điều kiện cho những tội phạm tạo ra nguồn thu bất hợp pháp rất lớn và chúng luôn có nhu cầu chuyển những nguồn thu bất hợp pháp này thành những nguồn thu có bề ngoài hợp pháp.

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí