Số Lượng Công Ty Chứng Khoán Và Quĩ Đầu Tư Trên Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam


thời gian được thể hiện trong Bảng 2.8. Hoạt động của công ty chứng khoán đã một số thay đổi từ cuối năm 2008. Do yêu cầu về tăng vốn pháp định được qui định theo Luật Chứng khoán 2006, có tới 29 công ty chứng khoán phải thực hiện giảm bớt nghiệp vụ kinh doanh do không thể đảm bảo tăng vốn điều lệ theo qui định của Luật Chứng khoán mới.

Bảng 2.8 Số lượng công ty chứng khoán và quĩ đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Năm

Số lượng Công ty chứng khoán

Vốn điều lệ các công ty (tỷ đồng)

Số lượng các công ty quản lý quĩ

2000

7

257

0

2001

8

317

0

2002

9

388

0

2003

12

523

0

2004

13

606

2

2005

15

723

5

2006

55

3.755

18

2007

78

12.382

25

2008

102

21.626

46

2009

105

21.822

46

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.

Nguồn: [53],[54],[55],[56]


Đến cuối năm 2005, mới chỉ có 14 công ty chứng khoán được cấp giấy phép hoạt động, nhưng trong các năm từ 2006 đến 2008, số công ty chứng khoán được cấp giấy phép thành lập lần lượt là 39, 24, và 23 công ty, nâng số công ty chứng khoán


tăng lên gấp 6 lần chỉ trong vòng 3 năm. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã thông báo ngừng tiếp nhận hồ sơ thành lập công ty chứng khoán mới vì cho rằng đã có quá nhiều công ty hoạt động so với qui mô của thị trường chứng khoán hiện tại. Thêm vào đó, cũng chưa có qui định về giải thể, phá sản, sáp nhập công ty chứng khoán gây lúng túng cho cơ quan quản lý khi xử lý các công ty chứng khoán thua lỗ trong hoạt động kinh doanh.

Các công ty chứng khoán là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trên thị trường. Một tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập và lãi của các công ty này là từ hoạt động tự doanh chứng khoán (thường chiếm tới 2/3 tổng thu nhập của các công ty). Cấu trúc về thu nhập và lợi nhuận của các công ty chứng khoán được thể hiện trong Bảng 2.9. Ngoài ra, các công ty chứng khoán cũng đã tham gia thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu/trái phiếu lần đầu cho các công ty cổ phần thông qua việc tham gia làm đại lý đấu giá cổ phần hoặc tổ chức đấu giá cho các tổ chức phát hành.

Bảng 2.9 Cơ cấu thu nhập và lợi nhuận của các công ty chứng khoán


Năm

2005

2006

2007

Hoạt động tự doanh và đầu tư

75,0%

66,7%

58,1%

Tư vấn tài chính và đầu tư

6,2%

2,4%

1,9%

Bảo lãnh phát hành chứng khoán

4,0%

2,98%

2,9%

Quản lý danh mục đầu tư

3,6%

7,0%

16,5%

Môi giới chứng khoán

2,0%

15,7%

20,5%

Thu khác

9,2%

5,3%

1%

Nguồn: [53],[54],[55]


Về hoạt động của các quĩ đầu tư và công ty quản lý quĩ: Đến cuối năm 2009, đã có 46 công ty quản lý quĩ được UBCKNN cấp phép thành lập và đi vào hoạt động. Các


quĩ đầu tư bao gồm các quĩ đầu tư 100% vốn nước ngoài, quĩ liên doanh và quĩ nội địa. Hiện tại có 4 quĩ đại chúng thực hiện niêm yết chứng chỉ quĩ trên thị trường chứng khoán với vốn điều lệ của 4 quĩ là 2.516,46 tỷ đồng.

Sau cùng, đối tượng nhà đầu tư quan trọng trên thị trường vốn Việt Nam cần phải kể đến là các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm cả các tổ chức và cá nhân. Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua các năm gần đây, đến cuối năm 2007 là hơn 8.400 tài khoản, gấp 20 lần số tài khoản cuối năm 2005. Đến thời điểm cuối năm 2009, số tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài là 12.694 tài khoản, trong đó số tài khoản của nhà đầu tư tổ chức là 627 tài khoản [56].

Giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư trên thị trường và được công bố hàng ngày. Các nhà đầu tư nước ngoài được cho là có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư chuyên nghiệp hơn. Trong giai đoạn thị trường chứng khoán giảm giá năm 2008, các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn giá thị trường thông qua việc mua ròng một số lượng chứng khoán lớn.

2.2.2.2 Hoạt động của các Sở giao dịch chứng khoán:


a) Hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu trên thị trường sơ cấp


Một đặc điểm nổi bật của hoạt động phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp ở Việt Nam giống với các nước có nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu là quá trình này gắn liền với quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước. Việc đấu giá cổ phần lần đầu của các DNNN cổ phần hóa, các công ty cổ phần được thực hiện qua các Trung tâm/Sở GDCK hoặc qua các công ty chứng khoán.

Số liệu về hoạt động đấu giá cổ phần lần đầu qua các Sở giao dịch chứng khoán trong giai đoạn 2005-2009 được thể hiện trong Bảng 2.10.


Bảng 2.10 Chứng khoán phát hành lần đầu qua các Sở GDCK trong thời gian 2005-2009

Năm

2005

2006

2007

2008

2009

1. Sở GDCK TP HCM

Số đợt đấu giá cổ phần

36

89

78

29

18

Khối lượng cổ phần phát

hành (triệu cổ phần)

126,5

328

532

159

37,1

Giá trị cổ phiếu phát hành (tỷ

đồng)

2.534,6

10.322,5

36.591

7.350

567,6

Số đợt đấu thầu trái phiếu

27

11

0

0

0

Giá trị trái phiếu phát hành

(tỷ đồng)

2.310

4.257

0

0

0

2. Sở GDCK Hà Nội

Số đợt đấu giá cổ phần

28

40

53

29

19

Khối lượng cổ phần phát

hành (triệu cổ phần)

184

213,9

285,3

42,94

123,5

Giá trị cổ phiếu phát hành (tỷ

đồng)

2.039

7.746

14.847,7

1.038

1.546,8

Số đợt đấu thầu trái phiếu

6

21

44

44

60

Giá trị trái phiếu phát hành

(tỷ đồng)

205

4.268

18.939

7.008

10.875,7

Nguồn: [53],[54],[55],[56],[120],[121] và tác giả tổng hợp.


Ngoài việc phát hành chứng khoán lần đầu, các doanh nghiệp niêm yết trên cả 2 Sở giao dịch cũng thực hiện phát hành mới chứng khoán. Hoạt động phát hành trên thị trường sơ cấp đã bùng nổ trong năm 2007 khi thị trường thứ cấp trở nên sôi động. Tổng khối lượng vốn huy động qua thị trường chứng khoán (cả cổ phiếu và trái phiếu phát hành lần đầu và phát hành thêm) theo UBCKNN năm 2007 là 127 nghìn tỷ đồng (chiếm 11,69% tổng vốn huy động trong toàn bộ nền kinh tế). Trong 2 năm


2008-2009, do điều kiện kinh tế trong nước và thế giới không thuận lợi, khối lượng vốn mới huy động qua thị trường giảm xuống, ở mức 29.000 tỷ đồng năm 2008. Năm 2009 số liệu thống kê ban đầu cho thấy khối lượng phát hành lần đầu chỉ đạt xấp xỉ 13.000 tỷ qua 2 Sở giao dịch.

Một đặc điểm nổi bật trong năm 2009 là hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu riêng lẻ của các công ty niêm yết và công ty đại chúng. Trong đó, rất nhiều trái phiếu công ty được phát hành nhưng chưa được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán.

b) Hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường thứ cấp b1) Hoạt động của Sở giao dịch CK TP HCM (HOSE):

HOSE bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2000 và cho đến thời điểm cuối năm 2009, Sở đã thực hiện được 2.195 phiên giao dịch chứng khoán với những kết quả đáng ghi nhận trong việc tổ chức giao dịch thị trường chứng khoán.

Hiện tại, Sở thực hiện giao dịch 5 ngày/tuần (trừ ngày lễ) với thời gian thực hiện như sau:

Đợt 1 từ 8h30 – 9h: khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa Đợt 2 từ 9h – 10h15: khớp lệnh liên tục

Đợt 3 từ 10h15 – 10h30: khớp lệnh định kỳ xác định giá đóng cửa Đợt 4 từ 10h30 – 11h: giao dịch thoả thuận.

Từ việc giao dịch 3 phiên/tuần, tăng lên 5 phiên/tuần, rồi số lần thực hiện khớp lệnh tăng lên 2 lần/phiên, và tiếp theo là thực hiện khớp lệnh liên tục từ tháng 7/2007, năng lực thực hiện giao dịch của Sở đã tăng mạnh. Thêm vào đó, việc áp dụng công nghệ thông tin, cho phép chuyển màn hình nhập lệnh từ Sở về các công ty chứng khoán, cho phép các nhà đầu tư đặt lệnh qua Internet v.v… đã giúp cho việc giải toả năng lực xử lý lệnh giao dịch của các nhà đầu tư. Điều này thể hiện rất rõ trên thực


tế. Theo ông Trần Đắc Sinh, giám đốc Sở giao dịch, sau một năm áp dụng giao dịch trực tuyến, khả năng của hệ thống giao dịch có thể xử lý được 900 nghìn lệnh trong 1 ngày, trong đó khớp 600 ngàn lệnh. So với qui mô giao dịch kỷ lục ngày 23/10/2009 với giá trị hơn 6.000 tỷ trên HOSE, khả năng xử lý lệnh hiện tại lớn hơn khoảng 10 lần so với nhu cầu giao dịch cao kỷ lục trong phiên này.


Hình 2 2 Diến biến giá chứng khoán trên Sở GDCK TP HCM từ năm 2000 2010 Nguồn 1


Hình 2.2 Diến biến giá chứng khoán trên Sở GDCK TP HCM từ năm 2000-2010

Nguồn: Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam


Trong giai đoạn từ tháng 10/2006 – 4/2007 là lúc thị trường tăng mạnh và qui mô giao dịch tăng lên cao nhất là 18 triệu chứng khoán khớp lệnh/phiên, hiện tượng nghẽn lệnh, chèn và rớt lệnh xảy ra phổ biến ở nhiều công ty chứng khoán. Tuy vậy, vào thời điểm tháng 6/2009 khi thị trường đi vào giai đoạn hồi phục, qui mô giao dịch có phiên đạt tới 100 triệu chứng khoán/phiên giao dịch và không có một sự ghi nhận nào về hiện tượng nghẽn lệnh hoặc rớt lệnh của nhà đầu tư. Bảng 2.11 thể hiện khối lượng và giá trị giao dịch chứng khoán tại Sở GDCK TP HCM qua các năm 2005-2009.


Bảng 2.11 Giao dịch chứng khoán tại SGDCK TP Hồ Chí Minh


Năm

2000

2005

2006

2007

2008

2009

Số phiên giao dịch

66

251

250

248

245

251

Khối lượng chứng khoán giao dịch (triệu chứng khoán)

3,662

353

1.120

2.389

3.404

11.088

Giá trị chứng khoán giao dịch (tỷ đồng)

92,35

26.877

86.829

245.651

152.615

432.650

Giá trị giao dịch bình quân/phiên (tỷ đồng)

1,43

107

347

990

622

1.711,8

Mức độ tăng trưởng giá trị giao dịch/năm (%)

100

35

223

182

-37

183

Mức độ tăng trưởng giá trị giao dịch bình quân giai đoạn 2005- 2009


117%/năm

Nguồn: [34],[35],[121] và tác giả tổng hợp


Qua Bảng 2.11 ta thấy mặc dù có sự biến động mạnh về giá trị giao dịch trong giai đoạn 2005-2009, tuy nhiên mức độ tăng trưởng giá trị giao dịch bình quân trong giai đoạn này là 117%/năm, tức là qui mô giao dịch bình quân mỗi năm đã tăng gấp đôi so với năm trước đó. Đây có thể coi là một sự phát triển mạnh mẽ trong giao dịch trên thị trường thứ cấp.

b2) Hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX):


Mục đích tổ chức của HNX (trước đây là HASTC) là một thị trường giao dịch phi tập trung (OTC) trong chiến lược phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Hoạt động của HASTC tập trung vào ba mảng lớn:

Thứ nhất, tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu cho các tổ chức phát hành. Kể từ năm 2005 đến nay, Sở đã thực hiện nhiều đợt đấu giá cổ phần lần đầu cho các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và các công ty cổ phần (Bảng 2.9). Hoạt động đấu


giá cổ phần lần đầu đã diễn ra rất thành công trong 2 năm 2006-2007, tuy nhiên trong năm 2008, số lượng vốn huy động được trên thị trường sơ cấp sụt giảm đáng kể so với 2 năm trước đó do sự đi xuống trên thị trường thứ cấp gây nên.


Thứ hai, tổ chức đấu thầu và giao dịch các loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình. Tháng 6/2008, thị trường trái phiếu chuyên biệt ra đời mở ra một bước phát triển mới đối với thị trường giao dịch trái phiếu. Tổng số thành viên đấu thầu trái phiếu tại HASTC đã tăng lên 77 thành viên cuối năm 2008. Cuối tháng 8/2008, lần đầu tiên HASTC đã tổ chức thành công phiên đấu thầu 500 tỷ trái phiếu Công ty đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam với lãi suất 16%/năm được Chính phủ bảo lãnh. Hoạt động đấu thầu tại HASTC năm 2008 cũng bị ảnh hưởng bởi tình trạng suy giảm chung trên thị trường thứ cấp, khối lượng vốn huy động trái phiếu chỉ đạt 22,1% kế hoạch gọi thầu.


Thứ ba, tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng ký giao dịch. Thị trường giao dịch cổ phiếu công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCOM) chính thức đi vào hoạt động ngày 24/6/2009 sau hơn một năm trì hoãn với 10 công ty đại chúng đầu tiên đăng ký giao dịch. Sự ra đời của thị trường UPCOM thể hiện nỗ lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc đưa các giao dịch chứng khoán và thị trường chứng khoán vào khuôn khổ, nhằm bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư cũng như lợi ích của các cổ đông của công ty đại chúng. Tới đầu tháng 5/2009, đã có 959 công ty đại chúng đăng ký với UBCKNN. Số công ty này sẽ được yêu cầu lưu ký toàn bộ chứng khoán tại Trung tâm lưu ký chứng khoán và thực hiện giao dịch, thanh toán chứng khoán qua các công ty chứng khoán (theo Quyết định 87/2007/QĐ-BTC ngày 22/10/2007 của Bộ Tài chính). Khi đó, thị trường UPCOM được kỳ vọng sẽ là thị trường giao dịch chứng khoán lớn nhất về số lượng công ty đăng ký giao dịch so với 2 Sở giao dịch chứng khoán hiện nay.

Xem tất cả 199 trang.

Ngày đăng: 01/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí