Đeo bám khách hay chiến lược sinh tồn của nhóm người bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu dưới góc nhìn văn hóa - 5

trong công việc bán hàng của những người bán rong ở Bãi Sau chủ yếu là những phương tiện thô sơ, đó là những chiếc xe đạp, xe đẩy, những đôi quang gánh và đặc biệt ở Bãi Sau, phương tiện chính là chính đôi chân của họ. Đó hầu như là những phương tiện rẻ tiền, phần vì vốn ít, phần vì những phương tiện này phù hợp với đặc thù công việc dễ dàng di chuyển của họ, việc sử dụng phương tiện di chuyển đơn giản, thô sơ giúp họ có điều kiện gần gũi với khách.

Mặt khác, du khách sau khi bơi lội dưới biển, bước lên bờ nhu cầu của họ là ăn vặt, uống nước hoặc thưởng thức các món ăn ngay tại bờ biển thì những người bán hàng rong gần như đáp ứng hết, từ những bịch trái cây gọt sẵn, những ly đậu hũ nóng hổi, trái bắp luộc đến củ khoai nướng, hải sản nướng…Chính vì thế, những mặt hàng của người bán rong cũng nhận được sự ủng hộ khá nhiệt tình của khách hàng.

Tại Bãi Sau mỗi ngày có hàng trăm người hoạt động trong lĩnh vực bán rong, trong số đó tỷ lệ nữ chiếm đa số (39 nữ trong tổng số 50 người được hỏi, chiếm 78%), phần lớn trong số này chưa học hết cấp 3 (chỉ có 6/50người đã học hết cấp 3, chiếm 12%) điều đó chứng tỏ những người bán hàng rong ở Bãi Sau là những người có trình độ học vấn không cao.

Biểu 2.1: Về thời gian làm việc/ ngày:



25

23

20

15

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

14

10

Đeo bám khách hay chiến lược sinh tồn của nhóm người bán hàng rong tại khu du lịch Bãi Sau, thành phố Vũng Tàu dưới góc nhìn văn hóa - 5

9

5

4

8%

28%

46%

18%

0

Dưới 8tiếng

Từ 8 – 10tiếng

Từ 10 – 15tiếng

Trên 15tiếng

Sốngười

Tỷ lệ(%)


Thời gian làm việc của họ tương đối cao, số lượng người làm việc 8 tiếng trở xuống chỉ có 4/50 người (chiếm 8%) nhưng số người làm việc trung bình từ 10 đến 15 tiếng lên đến 23/50 người (chiếm tới 46%) và trên 15 tiếng là 9 người (chiếm18%) trong tổng số 50 người được hỏi. Điều đó chứng tỏ, những người bán rong ở Bãi Sau làm việc với cường độ rất cao, thông thường họ sẽ bắt đầu một ngày làm việc vào lúc 4 – 5h sáng (vì đi chợ đầu mối lấy hàng) với những người bán hàng ăn uống.

Biểu 2.2: Về thu nhập bình quân/ người/ngày:


20

19

18


16

15

14

13

12


10


8


6


4

3

2

6%

30%

38%

26%

0

Dưới100 ngàn Từ 100 –200ngàn Từ 200 – 250ngàn

Trên 250ngàn

Sốngười

Tỷ lệ(%)


Có tới 38% người bán hàng rong ở Bãi Sau với mức thu nhập trung bình từ 200 – 250 ngàn/ ngày và chỉ có 3% số người thu nhập dưới 100 ngàn, chính vì thế mức thu nhập ấy lý giải vì sao họ chấp nhận sự miệt thị của nghề nghiệp, chấp nhận những khó khăn của việc xa quê, xa gia đình để lập nghiệp ở BãiSau.

Mức thu nhập của những người bán hàng rong ở đây có thể cao so với thu nhập khi họ làm nông nghiệp ở quê, nhưng so với mặt bằng chung của Vũng Tàu, thì mức thu nhập này vẫn là mức thu nhập trung bình thấp, cuộc sống của họ sẽ gặp nhiều khó khăn.

Biểu 2.3: Về quê quán:


25

21

20

18

15

10

7

5

4

36%

42%

14%

8%

0

MiềnBắc

MiềnTrung

Miền Nam (không

gồm BR – VT)

Địaphương

Sốngười

Tỷ lệ(%)


Những người bán hàng rong ở Bãi Sau chỉ có 8% là người địa phương, 14% đến từ các tỉnh miền Nam (trong đó không bao gồm tỉnh BR – VT), còn lại là đến từ các vùng quê khác trên cả nước, trong đó có tới 36% đến từ miền Bắc và 42% đến từ miền Trung, tập trung ở các tỉnh như Hưng Yên, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Bình Định, Quảng Ngãi, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hầu hết người bán rong đến từ các vùng quê đến lập nghiệp ở Bãi Sau là theo sự giới thiệu của đồng hương, của những người cùng quê đi trước, quê quán của họ hầu như nằm ở các tỉnh còn khó khăn, nghèo nàn trên cả nước hoặc ở những tỉnh với các khu công nghiệp, khu đô thị mới phát triển.

Biểu 2.4: Về thâm niên bán hàng:


25

22

20

15

15

10

7

6

5

14%

30%

44%

12%

0

Dưới 1năm

Từ 1 –5năm

Từ 5 – 10năm

Trên 10năm

Sốngười

Tỷ lệ(%)


Nói về thâm niên bán hàng rong tại Bãi Sau, theo một nghiên cứu về người bán hàng rong ở Hà Nội, thâm niên trung bình của người bán hàng rong là khoảng từ 1 đến 4 năm và khi có cơ hội làm việc khác họ sẵn sàng từ bỏ công việc bán rong ấy (“Vấn đề người bán hàng rong trên các đường phố Hà Nội”, tlđd). Nhưng ở Bãi Sau, trong số 50 người được hỏi có tới 22 người có thâm niên làm việc này từ 5 đến 10 năm, chiếm 44% và chỉ có 7% là thâm niên dưới 1 năm, cũng có đến 12% số người đó làm việc trên 10 năm với nghề bán rong ở Bãi Sau. Điều đó chứng tỏ công việc bán hàng rong ở Bãi Sau có phần ổn định hơn một số đô thị khác, cụ thể là HàNội.

Về địa điểm bán hàng rong ở Bãi Sau, không giống với những người bán rong ở các đô thị khác là luôn luôn di chuyển trên các tuyến phố. Người bán rong ở Bãi Sau phải tuân thủ một trật tự, mặc dù với tên gọi là “bán rong” nhưng họ không được tự do trên tuyến phố vì Bãi Sau chỉ có một số vị trí trung tâm và

để đảm bảo “trật tự” thì những người bán rong cũng cần có sự phân định rạch ròi. Mỗi người bán rong ở đây đều phải thực hiện bán trên địa điểm “được chia” dọc Bãi Sau.

Qua tìm hiểu thực tế, động cơ thúc đẩy hoạt động bán hàng rong của người dân ở Bãi Sau chủ yếu là do hoàn cảnh gia đình nghèo khó, việc làm không ổn định, cũng nhiều trường hợp do ảnh hưởng của việc đô thị hóa nông thôn khiến những người dân ở những vùng quê không còn ruộng đất canh tác, bắt buộc họ phải tìm đến các đô thị, các trung tâm kinh tế, du lịch để buôn bán với số vốn ít ỏi. Tuy vậy, với mức thu nhập trung bình như đã nói ở trên phần nào lý giải nguyên nhân vì sao những người nông dân chấp nhận xa gia đình để đến các vùng kinh tế, du lịch để làm ăn, kiếmsống.

Khi hỏi về vấn đề bán hàng rong khiến họ cảm thấy như thế nào, có nhiều ý kiến cho rằng việc bán hàng rong cũng chi phối tâm trạng của họ rất nhiều, yếu tố chi phối rõ rệt nhất là phụ thuộc vào doanh thu bán hàng, có đôi lúc cũng phụ thuộc vào thái độ đối xử của khách hàng, của cơ quan quản lý, của chính quyền…Tuy vậy, đối với việc mưu sinh cần thiết thì việc họ cảm thấy như thế nào dường như không quan trọng cho lắm, có người nói rằng: “họ chửi thì kệ họ chứ, mình mà không bán thì con mình không có tiền đóng học phí” (nữ, 46 tuổi), có người lại cho rằng: “chửi là việc của họ, bán hàng là việc của mình nên thôi kệ, chỉ cần có người mua cho là tốt rồi” (nữ, 50 tuổi). Khi phỏng vấn 5 người trong một nhóm bán hàng, 04 trong số 05 người này đã từng đi làm thuê trong các nhà hàng và họ đều cảm thấy làm công việc này “tuy mệt nhưng không bị gò bó” (nữ, 47 tuổi), họ thấy thoải mái hơn là làm trong nhà hàng vì hàng ngày được tiếp xúc với rất nhiều khách nên họ thấy vui, đặc biệt là họ được chủ động về thời gian làm việc của mình. Có người so sánh “đi bán hàng thế này tôi chủ động được thời gian, gia đình có việc gì thì có thể nghỉ vài ngày để về được, chứ đi làm osin lại phải phụ thuộc chủ”(nữ, 50 tuổi)… Rõ ràng, chọn lựa được một công việc dù vất vả về thể xác nhưng tinh thần thoải mái vẫn là lựa chọn hàng

đầu mà những người bán hàng rong chọn lựa. Những thóa mạ, những dèm pha của dư luận, của truyền thông dường như cũng không có nhiều tác dụng trong việc chọn nghề của họ, một anh bán ngô nướng nói rằng “thích viết thì cứ viết chứ tui mà không bán là khách nhớ đấy”, (nam, 48 tuổi), khi nói về sự phẫn nộ với một số thông tin báo chí đăng tải, phần vì không còn lựa chọn công việc nào khác nhưng phần nhiều những người đeo bám khách ở đây họ cũng tìm được những niềm vui nhất định trong họ đang làm.

Về đời sống của những người bán hàng rong, do phải sống xa quê nên hầu hết họ sống trong các khu nhà trọ, cuộc sống rất vất vả vì chân lý “tiết kiệm tối đa”, tuy nhiên những người bán hàng rong ở đây lại có tinh thần đùm bọc nhau rất cao, có nhiều người mới hành nghề luôn nhận được sự giúp đỡ của những người đã có kinh nghiệm bán hàng lâu năm, thậm chí họ giúp đỡ cả về vốn kinh doanh, chỉ cho nhau cả những mánh khóe khi cần thiết trong bán hàng như cách để trốn công an khi bị phát hiện, cách để thuyết phục khách, cách giấu tiền về đêm khi sợ cướpbóc…

Cụ thể như gia đình chị Nguyễn Bá L. (quê Bình Định), đó là một gia đình gồm 4 người – 2 vợ chồng và 2 đứa con, họ cùng nhau di chuyển vào Vũng Tàu sinh sống từ năm 2005 khi nơi họ sinh sống mọc lên Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi và ruộng đất được sử dụng để xây dựng nhà máy, không còn ruộng đất canh tác, có một số vốn từ đền bù của nhà máy, họ quyết định theo người cùng làng vào Vũng Tàu với hy vọng cuộc sống tươi sáng hơn. Khi vào Vũng Tàu lập nghiệp, chồng chị làm thuê cho một chủ ghe đánh cá, được 01 năm thì trận bão lịch sử vào tháng 12 năm 2006 nhấn chìm ghe của nhà chủ, chồng chị mất việc, sau đó anh mua chiếc xe và hành nghề xe ôm, thật không may làm được gần 2 năm thì anh bị tai nạn, sức khỏe giảm sút quá nhiều do bị gãy xương vai. Hai đứa con lớn dần lên, một mình chị bươn chải với nghề bán hàng rong ở Bãi Sau, anh ở nhà nhận việc đập quả bàng lấy hạt và trông nom con cái. Mọi chi tiêu trong gia đình hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào số tiền chị bán hàng

rong ngoài biển, số tiền đền bù thì đã hết từ lâu sau khi anh bị tai nạn cần chữa trị. Khi được hỏi về những dự định trong tương lai, chị trả lời trong suy tư với đôi mắt khắc khổ: “chị bàn với anh cho các cháu về lại quê, nhưng nghĩ nếu về thì biết làm gì cho các cháu ăn học và chữa bệnh cho anh, ở đây chị còn túc tắc kiếm đồng ra, đồng vào”, tuy nhiên chị cũng nói: “ở đây bà con cùng quê cũng nhiều, các bác cũng đỡ khi khó khăn, khi nào cần tiền gấp cho cháu đóng học chị mướn tạm rồi bán hàng để trả sau”…

Éo le hơn hoàn cảnh của chị L. là hoàn cảnh của gia đình ông Trần Văn Đ. 55 tuổi, quê ở Quảng Ngãi, vợ ông mất sớm khi 3 đứa con còn nhỏ, ông theo người thân vào Vũng Tàu làm thuê kiếm sống, 3 đứa con để ở quê với bà nội, sau 3 năm ở Vũng Tàu, mẹ ông mất vì tai biến, ông đành đón cả 3 đứa vào và một mình nuôi nấng, dạy dỗ chúng cho đến nay. Đứa lớn nhất năm nay cũng đang học năm thứ 2 trường cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu, đứa nhỏ nhất học lớp 6. Ông nói: “nếu không có anh em cùng quê giúp đỡ đưa đón chúng đi học mình tui không thể xoay kịp được”, nghề bán hủ tiếu gõ của ông từ sáng sớm đến khuya, may mà các con của ông thương cha và đều nghe lời, cả cuộc sống và tương lai của các con ông hiện chỉ trông đợi vào xe hủ tiếu bán rong hàng ngày. Ông cũng cho biết thêm: “may mà thằng lớn sắp ra trường chứ từ đầu năm đến giờ người ta truy quét nghiêm quá nên làm ăn đâu cóđược”…

Nhưng hoàn cảnh hơn tất cả có lẽ là câu chuyện về mẹ của Th., một cậu sinh viên của tôi. Khi tôi thực hiện đề tài này thì Th. đã mất được hơn 1 năm do căn bệnh ung thư não, tuy vậy mẹ Th. vẫn miệt mài với nghề bán rong ở Bãi Sau sau khi lo liệu tang ma cho cậu. Tôi biết đến hoàn cảnh gia đình cậu ấy khi cậu ấy bắt đầu lâm bệnh vào năm 2012, gia đình chỉ có 3 mẹ con lập nghiệp ở Bãi Sau, bố và em nhỏ còn ở quê để trông coi bà nội già yếu, cậu cùng em gái và mẹ hành nghề bán rong ở Bãi Sau khi cậu mới 8 tuổi và em gái 6 tuổi. Trong “căn nhà trọ 5m vuông” vỏn vẹn, 3 mẹ con họ sống cuộc sống chật chội ở đấy, lý giải căn nhà trọ 5 mét vuông là do cậu nhận làm bảo vệ cho một nhà nghỉ, họ cho ở

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/09/2023