nghệ; (iv) tạo ra được thế hệ doanh nghiệp mới được hình thành từ các sáng chế của các trường đại học/viện nghiên cứu; (v) xây dựng cơ sở dữ liệu về cầu công nghệ (cầu về sáng chế, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ nhân lực).
Thứ ba, nâng cao năng lực cung hàng hoá CNC và phát triển các tổ chức trung gian, môi giới trên TTCNC.
Trước sức ép của cạnh tranh trong bối cảnh HNKTQT, nhu cầu của doanh nghiệp đối với hàng hoá CNC không chỉ là các kết quả nghiên cứu, các công nghệ chung chung, mà là các công nghệ có ứng dụng trong thực tiễn sản xuất kinh doanh. Điều này đặt ra nhu cầu phải nâng cao năng lực cung hàng hoá CNC và phát triển các tổ chức trung gian, môi giới. Căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay, để thực hiện được việc này chúng ta phải: (1) Hoàn thiện và cải tổ các tổ chức CNC công lập hiện có; (2) Khuyến khích phát triển các tổ chức CNC ngoài khu vực công lập, đặc biệt là các tổ chức CNC nước ngoài; (3) Thực hiện chính sách "sao chép có sáng tạo" như kinh nghiệm của các nước Đông Á; (4) Phát triển các tổ chức trung gian, môi giới nhằm gắn kết giữa cung và cầu trên TTCNC.
4.1.3. Phải bảo đảm hài hoà lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường công nghệ cao trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế thị trường
Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan trong quá trình phát triển kinh tế. Để thực hiện quan điểm này cần phải làm tốt một số yêu cầu
Một là, phải tôn trọng và bảo đảm lợi ích các chủ thể tham gia trên TTCNC trong quá trình HNKTQT
Việt Nam tham gia vào HNKTQT nhằm đảm bảo cho chúng ta tham gia đầy đủ vào hệ thống phân công lao động quốc tế, thu được các giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu để mang lại lợi ích lớn nhất cho Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập vào TTCNC khu vực và thế giới không bao giờ mang lại lợi ích hoàn toàn hoặc là bị thiệt hại hoàn toàn, mà đó
là quá trình hai mặt, vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối với các chủ thể tham gia TTCNC. Trong nhiều trường hợp cụ thể, chúng ta bắt buộc phải cân nhắc giữa lợi ích đạt được và những khó khăn để có một sự lựa chọn về bước đi, về chính sách cho phù hợp. Tham gia vào TTCNC có rất nhiều các chủ thể tham gia trong đó có các chủ thể trong nước, nước ngoài,… Do vậy, trong quá trình phát triển cần coi trọng và giải quyết hài hòa các lợi ích của các chủ thể, tránh tình trạng coi trọng hoặc xem nhẹ vai trò của các chủ thể nhằm tạo ra động lực phát triển toàn diện, hiệu quả và thiết thực.
Có thể bạn quan tâm!
- Số Lượng Sáng Chế Của Việt Nam Giai Đoạn 2015-2019
- Những Vấn Đề Đặt Ra Từ Thực Trạng Phát Triển Thị Trường Công Nghệ Cao Ở Việt Nam
- Quan Điểm Phát Triển Thị Trường Công Nghệ Cao Ở Việt Nam Đến Năm 2030
- Thực Hiện Chính Sách Ưu Đãi Thuế Linh Hoạt Để Thúc Đẩy Sự Phát Triển Của Thị Trường Công Nghệ Cao
- Tạo Lập Và Thúc Đẩy Nhu Cầu Sản Phẩm, Dịch Vụ Hàng Hóa Công Nghệ Cao Trên Thị Trường Công Nghệ Cao
- Hình Thành Các Tổ Chức Trung Gian, Môi Giới Chuyên Tư Vấn Về Hoạt Động Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
Trong điều kiện ngày nay, phải luôn xác định lợi ích của dân tộc, quốc gia lên hàng đầu, đồng thời bảo đảm sự bình đẳng về lợi ích của các chủ thể Việt Nam với nước ngoài và khai thác được lợi ích của nước đi sau trong HNKTQT. Đây là quá trình đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc chung, thực hiện quyền và nghĩa vụ thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế mà Việt Nam tham gia nhưng cần vận dụng linh hoạt các nguyên tắc quốc tế, có đối sách phù hợp nhằm mang lại lợi ích tối đa cho đất nước và các chủ thể Việt Nam. Việc phát triển TTCNC trong bối cảnh hội nhập cũng phải đảm bảo việc thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới và đảm bảo môi trường thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, trước hết là tạo dựng mối quan hệ hợp lý giữa lợi ích của nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, tổ chức KHCN và xã hội.
Hai là, phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay phải tuân theo các quy luật của KTTT
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, cùng với đó là quá trình tự do hóa thương mại đã buộc các nước khi tham gia hội nhập kinh tế, đều phải thực hiện các cam kết, điều luật, nguyên tắc và thông lệ quốc tế chung những “quy tắc” và những “luật chơi” của các tổ chức quốc tế và khu vực.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình phát triển TTCNC cần phải được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tuân thủ các quy luật kinh tế khách quan của nền KTTT như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh… có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước và tuân theo những thông lệ, quy định quốc tế. Trong đó, sự hỗ trợ của Nhà nước chỉ là điều kiện cần, còn chủ yếu là sự nỗ lực quyết tâm chuyển đổi, chủ động hội nhập của các chủ thể tham gia trên thị trường như Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trên lĩnh vực CNC. Do vậy, một trong những nguyên tắc quan trọng để phát triển TTCNC bền vững, hiệu quả có tính khả thi là những chính sách hỗ trợ phải đảm bảo tính minh bạch tuân theo quy luật KTTT, không trái với các quy định và thông lệ quốc tế và những cam kết của Chính phủ.
4.1.4. Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam phải trên cơ sở kết hợp giữa nội lực và ngoại lực góp phần tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia
Quan điểm này là sự vận dụng sáng tạo quan điểm kết hợp giữa nội lực với ngoại lực trong CNH, HĐH vào lĩnh vực KHCN. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược bởi lẽ, nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con đường phát triển rút ngắn. Kết hợp tốt hai sức mạnh đó sẽ giúp rút ngắn khoảng cách lạc hậu về trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và trên thế giới tạo điều kiện nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia, góp phần từng bước phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, KHCN ngày càng có vị trí vai trò quan trọng trong phát triển KT-XH của các quốc gia trên thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Hơn nữa nước ta đang trong quá trình phát triển nếu chỉ dựa vào nội lực nhỏ bé trong nước thì quá trình phát triển sẽ rất chậm chạp và khó khăn. Trong khi đó, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã tạo ra thời cơ lớn cho tất cả các nước trong việc du nhập công nghệ từ nước tiên tiến hơn mình để phát triển nhanh. Trong bối cảnh đó, phát huy cao độ nội lực và khai thác, tận dụng tối đa ngoại lực cho phát triển KHCN và TTCNC là vấn đề tất yếu trong chiến lược phát triển rút ngắn, đi tắt đón đầu về công nghệ.
Ngoại lực ở đây cần được hiểu là những thành tựu tiên tiến về công nghệ hiện đại ở các nước trên thế giới mà Việt Nam có thể huy động được cho
phát triển TTCNC. Nó không chỉ là những công nghệ hiện đại có được thông qua con đường hợp tác và CGCN mà còn bao gồm cả các yếu tố khác như vốn đầu tư, nguồn nhân lực, kiến thức, kinh nghiệm trong quản lý….
Tuy nhiên, muốn sử dụng nguồn ngoại lực có hiệu quả thì phải phát huy nội lực của đất nước. Chính nội lực mới là nhân tố quyết định đến khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực. Trong đó, chủ yếu nhất là vai trò quan trọng của Nhà nước trong định hướng điều hành quản lý TTCNC, nguồn nhân lực KHCN chất lượng cao và nguồn nhân lực trên các lĩnh vực khác,... Không có hoặc thiếu nguồn nội lực mạnh thì chỉ tiếp nhận được những nguồn ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là “rác thải công nghệ” của các nước khác.
Quán triệt quan điểm này cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Một là, giữ vững quan điểm nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng.
Đây là vấn đề trung tâm, chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay. Có khai thác và phát huy tốt nội lực thì mới có cơ sở để thu hút được ngoại lực và sử dụng chúng có hiệu quả. Nội lực càng mạnh thì càng bảo đảm được tính độc lập, tự chủ về KHCN, nâng cao được năng lực KHCN CNC nội sinh từ đó hạn chế được nguy cơ lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Đồng thời, nhờ thu hút được nguồn ngoại lực thì Việt Nam có thể rút ngắn được khoảng cách chênh lệch về trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, học tập được những kinh nghiệm quý giá trong quá trình phát triển TTCN từ các phương thức, cách thức quản lý, điều hành, vận hành thị trường… của các nước tiên tiến trên thế giới. Điều này sẽ giúp cho quá trình hình thành và phát triển TTCNC của nước ta sẽ nhanh hơn, không phải mò mẫm, tìm tòi, thử nghiệm nhất là đối với các lĩnh vực công nghệ mới.
Trong phát huy nội lực, quan trọng nhất là cần tập trung khai thác phát huy thế mạnh và tiềm năng lớn của các tổ chức KHCN, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng thành tựu KHCN, cùng với nguồn nhân lực KHCN tương đối hùng hậu của các tổ chức KHCN quốc
gia đứng chân trên địa bàn cả nước, nhất là ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; huy động các nguồn lực từ trong dân, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cho thực hiện các nhiệm vụ KHCN và phát triển TTCNC trong giai đoạn hiện nay.
Trong khai thác ngoại lực cần chú ý đẩy mạnh hoạt động hợp tác về KHCN với các nước có trình độ công nghệ hiện đại và TTCN phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ixraen…. Thực hiện hợp tác toàn diện cả trong đào tạo nguồn nhân lực KHCN, trong NCKH và trong chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, trong chuyển giao quy trình quản lý, phương thức, cách thức phát triển TTCN.
Hai là, có cơ chế chính sách phù hợp, kết hợp đầu tư có trọng tâm, trọng điểm với việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động KHCN trong phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút đầu tư, tạo môi trường thông thoáng, minh bạch bình đẳng giữa đầu tư trong nước và nước ngoài, giữa tư nhân với nhà nước. Đồng thời, mở rộng liên kết hợp tác với các địa phương trong nước, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các đối tác chiến lược, các tập đoàn kinh tế, công ty xuyên quốc gia và các tổ chức quốc tế có năng lực, uy tín trong phát triển TTCN, để tăng cường các nguồn lực, mở rộng thị trường chia sẻ kinh nghiệm, CGCN, phối hợp đào tạo nguồn nhân lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, hiện nay nguồn kinh phí đầu tư cho KHCN nói chung và phát triển TTCNC nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, để phát huy nội lực thì hoạt động đầu tư cho CNC cần có trong tâm, trọng điểm, tập trung vào một số lĩnh vực CNC mũi nhọn, then chốt như: công nghệ sinh học, Công nghệ thông tin; Công nghệ sinh học; Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ tự động hóa. Đồng thời, có cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu, CGCN và đầu tư cho phát triển KHCN làm nền tảng cho phát triển TTCNC giai đoạn tiếp theo.
4.2. Giải pháp phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2030
4.2.1. Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam
Từ thực tiễn phát triển TTCNC trong thời gian qua kinh nghiệm của nhiều quốc gia và cho thấy, để phát triển TTCNC, việc hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách là vô cùng cần thiết và quan trọng, đây chính là cơ sở, là nền tảng pháp lý cho TTCNC phát triển. Đối với Việt Nam TTCNC đang trong quá trình phát triển, đồng thời chịu sự tác động rất lớn của các yếu tố đối với quá trình phát triển của thị trường này như áp lực của cuộc cách mạng 4.0, áp lực của HNKTQT trong điều kiện mới và nhất là chịu sự tác động của các quy luật kinh tế trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa,… Do vậy để TTCNC phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới, cần có sự can thiệp của Nhà nước thông qua hệ thống cơ chế, chính sách về TTCNC. Để thực hiện tốt giải pháp này cần hoàn thiện thể chế chính sách theo các nội dung chính như sau:
4.2.1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về sở hữu trí tuệ, CGCN và cạnh tranh.
Để thực hiện được việc này, chúng ta phải rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật, chính sách về SHTT, CGCN và cạnh tranh nhằm khắc phục ngay những quy định không thống nhất trong các văn bản, xoá bỏ những bất cập và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách này, đặc biệt là các văn bản quy định các nội dung chi tiết như các nghị định, thông tư về SHTT, CGCN và cạnh tranh nhằm thúc đẩy sự phát triển của TTCNC và phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong các định chế quốc tế và khu vực.
Việc điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, chính sách này phải hướng vào việc tạo ra môi trường thuận lợi cho TTCNC phát triển theo các nguyên tắc, quy luật của thị trường, tạo điều kiện cho các quan hệ thị trường phát triển và đảm bảo các yêu cầu sau. (1) Không làm ảnh hưởng lớn trên TTCNC; (2) Phải phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và hoàn
cảnh cụ thể của đất nước; (3) Phải tính toán, vận dụng uyển chuyển các nguyên tắc trong các hiệp định quốc tế để đảm bảo lợi ích của xã hội, nhà nước và các chủ thể trên TTCNC.
Trên cơ sở nguyên tắc như vậy, việc hoàn thiện, điều chỉnh bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, chính sách về SHTT, CGCN và cạnh tranh như sau:
Thứ nhất, đối với luật pháp, chính sách về SHTT trước hết cần được bổ sung, hoàn thiện theo hướng đáp ứng yêu cầu thực tiễn, tăng cường các công cụ, chế tài để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền SHTT, sau đó sẽ được hoàn thiện theo hướng đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư và CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư cho phát triển KHCN. Việc hoàn thiện luật pháp, chính sách về SHTT được thực hiện thông qua các nội dung sau:
Xây dựng các quy định mới về bảo hộ và thực thi quyền SHTT đối với các loại hàng hoá CNC mới xuất hiện trên thị trường như các hàng hoá CNC liên quan tới môi trường kỹ thuật số, internet, tự động hóa,…
Nâng mức xử phạt và tạo ra cơ chế xử phạt bằng kinh tế sao cho lợi ích từ việc vi phạm SHTT phải luôn thấp hơn mức phạt của các cơ quan chức năng đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm quyền SHTT.
Bổ sung, ban hành kịp thời một số văn bản dưới luật như các thông tư, nghị định để hướng dẫn thi hành luật SHTT như thông tư hướng dẫn xử lý vi phạm trong lĩnh vực SHTT, thông tư hướng dẫn, quy định về quyền tác giả và quyền liên quan và các văn bản liên quan khác.
Thứ hai, đối với luật pháp, chính sách về CGCN cần được xây dựng, hoàn thiện theo hướng bảo đảm nội dung đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng nhằm thúc đẩy chuyển giao hàng hoá CNC. Luật pháp và chính sách CGCN cần bổ sung các quy định mới đối với một số nội dung còn thiếu như các nội dung về định giá công nghệ, các tổ chức trung gian môi giới công nghệ và chợ công nghệ, thiết bị, sàn giao dịch công nghệ. Bổ sung thêm chính sách khuyến khích ưu đãi đối với các đối tượng tham gia dịch vụ CGCN, chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công
tác quản lý trong lĩnh vực KHCN. Tiếp đến, hoàn thiện các văn bản, chính sách hướng dẫn thực hiện công tác quản lý nhà nước về CGCN trong các lĩnh vực. Hoàn thiện và cập nhật cho phù hợp với thực tế hệ thống danh mục các công nghệ ưu tiên chuyển giao, công nghệ được miễn, giảm thuế khi chuyển giao, công nghệ trong nước chưa sản xuất dược miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu.
Thứ ba, hệ thống luật pháp và chính sách về cạnh tranh cần được hoàn thiện và bổ sung theo hướng xây dựng một môi trường cạnh tranh thống nhất, lành mạnh, bình đẳng, đồng bộ đối với các chủ thể trên TTCNC, bao gồm cả chủ thể nước ngoài
Môi trường cạnh tranh đó phải hướng tới việc tạo điều kiện cho tự do nghiên cứu, trao đổi, lưu thông hàng hoá trên TTCNC và đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh trên thị trường. Một môi trường thống nhất, thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng sẽ giúp cho kiểm soát độc quyền, xóa bỏ bao cấp, đặc quyền, đặc lợi, từ đó tạo ra sức ép đổi mới công nghệ và ứng dụng tiến bộ KHCN của các doanh nghiệp. Để thực hiện điều này, trước mắt, cần đẩy mạnh việc thực hiện Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật này. Bên cạnh đó, luật pháp, chính sách về cạnh tranh có mối liên hệ với nhiều luật pháp, chính sách khác như SHTT, CGCN,... Vì vậy, cần thiết phải hình thành một cơ chế phối hợp và thông tin thường xuyên trong quá trình thực thi luật pháp và chính sách về cạnh tranh.
4.2.1.2. Hoàn thiện chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển thị trường công nghệ cao
Trong thời gian tới cần tăng cường đầu tư từ NSNN cho phát triển TTCNC, trọng tâm là hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các tổ chức trung gian và thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nâng tỷ lệ chi cho KHCN ở nước ta từ NSNN hàng năm trong những năm tới lên mức 2,5 - 3 % tổng chi ngân sách, tương ứng với 1% GDP [12].