Quan Điểm Phát Triển Thị Trường Công Nghệ Cao Ở Việt Nam Đến Năm 2030


KHCN của nhà nước vẫn còn lớn, việc chuyển đổi hoạt động của các tổ chức KHCN sang hoạt động mô hình doanh nghiệp KHCN còn chậm chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Mặt khác, chất lượng đầu tư cho R&D của nước ta còn thấp, năng lực khoa học chưa cao, năng lực đổi mới sáng tạo còn nhiều hạn chế. Đây là những yếu tố làm cho quy mô nguồn cung hàng hóa công nghệ chưa cao

Theo số liệu Điều tra của Bộ KHCN, tổng đầu tư cho R&D năm 2018 của cả nước khoảng 26.386 tỷ đồng (xấp xỉ 1,137 tỷ USD, xấp xỉ 0,47% GDP cùng thời kỳ). Trong đó 49% vốn đầu tư cho R&D đến từ ngân sách nhà nước; 38% đến từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước, và khoảng 13% đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về phân bổ ngân sách cho R&D, các dự án R&D được thực hiện ở doanh nghiệp có tổng ngân sách lên đến 19.260 tỷ (chiếm 73% tổng chi cho R&D của cả nước). Tuy nhiên, nguồn vốn R&D nhà nước đầu tư để thực hiện tại các doanh nghiệp chiếm đến 31% con số này. Về chi phí R&D được thực hiện ở các tổ chức KHCN, nguồn vốn của nhà nước chiếm đến 98% kinh phí R&D thực hiện ở đây. Kết quả này gợi ý rằng đầu tư cho R&D của Việt Nam là khá thấp cả về mặt tuyệt đối và tương đối so với Thái Lan (đầu tư 5,1 tỷ USD cho R&D, chiếm 0,5% GDP), Malaysia (9,7 tỷ USD và 1,3% GDP), Singapore (10,1 tỷ USD và 2,1% GDP) và thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản (169,5 tỷ USD và 3,4% GDP) hay Hàn Quốc (73,1 tỷ USD và 4,3% GDP). Vì vậy, nguồn cung công nghệ trong nước sẽ hết sức hạn chế trong trung và ngắn hạn [15].

Bên cạnh đó năng lực KHCN của Việt Nam so với thế giới là tương đối thấp. Ngoại trừ hai yếu tố là chi tiêu của các công ty cho R&D và mua sắm chính phủ về sản phẩm công nghệ của chính phủ đạt ở mức trung bình (cả điểm số và thứ hạng), các chỉ tiêu khác phản ánh năng lực đổi mới sáng tạo của Việt Nam như chất lượng của các trường đại học, hợp tác đại học và doanh nghiệp về R&D, sự sẵn có của các nhà khoa học và các kỹ sư, số lượng sáng chế được đăng ký trên một triệu dân là khá thấp.

Để mở rộng và phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay ngoài mở rộng quy mô về nguồn cung thì quy mô nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là rất


cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu công nghệ tại các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN của 63 tỉnh/thành để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giải mã và CGCN không có sự biến động nhiều trong ba năm gần đây (Bảng 3.14), thậm chí năm 2019 còn có xu hướng giảm so với năm 2018. Thống kê tổng số nhu cầu công nghệ năm 2016 là 95 công nghệ ở các lĩnh vực như công nghệ sinh học; công nghệ thực phẩm; xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ vật liệu; y dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp. Năm 2017, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 93 công nghệ ở một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý môi trường. Năm 2018, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 115 công nghệ ở một số lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm, nông nghiệp, sản xuất vật liệu và xử lý môi trường. Năm 2019, số nhu cầu công nghệ của các Trung tâm là 105 công nghệ ở một số lĩnh vực cụ thể như công nghệ sinh học; công nghệ thực phẩm; xử lý môi trường; tiết kiệm năng lượng; nông nghiệp; công nghệ vật liệu; y dược; xây dựng; tự động hóa; công nghiệp [15].

Mặt khác, xét nhu cầu công nghệ theo thống kê từ các Sàn giao dịch công nghệ và thiết bị đang hoạt động tại các tỉnh/thành của Việt Nam (cập nhật đến 6/2020), nhu cầu về công nghệ, công nghệ tại các sàn giao dịch công nghệ và thiêt bị cho thấy như sau nhu cầu về công nghệ thông qua sàn giao dịch công nghệ và thiết bị chủ yếu thông qua sàn giao dịch quốc gia, nhu cầu công nghệ của các địa phương là không đồng đều, có sự chênh lệch về nhu cầu khá lớn giữa các trung tâm thành phố lớn trên phạm vi cả nước, cá biệt có những sàn giao dịch công nghệ và thiết bị không có cầu về hàng hóa công nghệ, như sàn giao dịch An Giang, Hải Dương, Cần Thơ,…[Phụ lục 20].

Như vậy, việc mở rộng và phát triển thị trường CNC ở Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung giải quyết hài hòa việc phát triển nguồn cung và cầu hàng hóa CNC. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và tuân theo đúng quy luật kinh tế, giải quyết được mâu thuẫn này sẽ là động lực rất quan trọng góp phần phát triển thị trường CNC ở nước ta hiện nay theo hướng bền vững.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.


Thứ hai, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng TTCNC với phát triển của các tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC còn nhiều bất cập.

Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam - 16

Mạng lưới tổ chức trung gian TTCNC đang trong giai đoạn hình thành, còn manh mún và hạn chế về năng lực

Các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng chưa được đầu tư và phát triển tương xứng với sứ mệnh là trung tâm kết nối cung cầu về công nghệ và tài sản trí tuệ tại 3 khu vực.

Các tổ chức trung gian có tính chuyên môn cao về đánh giá, định giá công nghệ và cung cấp các dịch vụ thông tin, môi giới công nghệ còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tạo được niềm tin cần thiết đối với cả bên cung và cầu công nghệ. Hơn nữa, hoạt động của các tổ chức này còn mang tính riêng rẽ, thiếu kết nối nên đã hạn chế sức lan tỏa trong khai thác thông tin công nghệ và cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới, định giá so với việc hoạt động trong một mạng lưới được kết nối giữa các tổ chức trung gian.

Các hiệp hội, ngành hàng, các đại diện thương mại, đại diện ngoại giao… chưa được chú ý huy động tham gia hoạt động xúc tiến TTCNC nên chưa phát huy được vai trò của các tổ chức này trong hoạt động thúc đẩy giao dịch công nghệ phục vụ đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp.

Các nguồn công nghệ sẵn có từ nước ngoài chưa được chú ý đúng mức trong tổ chức thực hiện chương trình phát triển TTCNC. Mạng lưới các chuyên gia giỏi ngoài nước (các hiệp hội quốc tế, chuyên gia người nước ngoài, chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài) chưa được thu hút để hỗ trợ các tổ chức trung gian, môi giới và các doanh nghiệp trong nước giúp tìm kiếm, lựa chọn, tiếp thu và làm chủ công nghệ.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về phát triển TTCNC với hệ thống thiết chế hiện nay còn chưa đồng bộ, đầy đủ.

Mặc dù Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng, song các chính sách này hoặc là đang còn quá mới hoặc là chưa thực sự hấp dẫn các doanh nghiệp, tổ chức và các nhà khoa học như quy định về việc trích thu nhập tính thuế hàng


năm để lập quỹ phát triển KHCN doanh nghiệp trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp chưa tạo được động lực cho các doanh nghiệp đầu tư cho KHCN.

Từ thực tế những vấn đề bất cập còn tồn tại trong chính sách và cơ chế quản lý nhà nước về hành lang pháp lý chưa minh bạch, các thủ tục hành chính nhằm công nhận các phát minh sáng chế hoặc kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học là cá nhân có nhiều phức tạp. Đây chính là những tác động tiêu cực, thủ tiêu tính sáng tạo của các nhà khoa học và là nhân tố làm giảm cung của TTCNC.

Nhu cầu sử dụng các sản phẩm sản phẩm, dịch vụ CNC đến từ tất cả các thành phần trong xã hội. Đối với các thành phần có liên quan đến nhà nước, trong hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách có tác động trực tiếp đến việc thay đổi và đổi mới sử dụng các sản phẩm CNC ví dụ như các chính sách mua sắm các sản phẩm công nghệ của Chính phủ nhằm trang bị cho các cơ quan tổ chức trong bộ máy chính phủ làm việc góp một phần không nhỏ vào việc kích cầu các loại hình sản phẩm đặc thù này. Các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong đầu tư vào mua sắm và đổi mới công nghệ trong sản xuất và cung cấp dịch vụ cũng đóng góp phần quan trọng vào thúc đẩy cầu đối với các sản phẩm công nghệ. Ngoài ra, những quy định chi tiết về sự lạc hậu của một số các tiêu chuẩn khoa học, công nghệ trong quá trình áp dụng vào sản xuất và cung ứng dịch vụ nhằm đáp ứng với những quy định mới của chính phủ. Ví dụ như những quy định về lượng khí thải, chất thải ra môi trường sẽ buộc các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ để nhằm giảm khí thải theo quy định. Đây là những tác động tích cực trực tiếp lên cầu của sản phẩm CNC trên thị trường.

Ngược lại, sự “dễ dãi” trong cơ chế chính sách đối với các tiêu chuẩn về công nghệ, máy móc áp dụng cho quá trình sản xuất, cung ứng dịch vụ sẽ có tác động tiêu cực đến nhu cầu về sản phẩm công nghệ trên thị trường. Hiệu lực của pháp luật trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp còn nhiều hạn chế, quyền sở hữu công nghiệp đặc biệt là năng lực để thực thi quyền sở hữu chưa tốt. Khung pháp luật về sở hữu công nghiệp chưa đầy đủ và chưa có tính hiệu lực cao, đây là tình trạng khá phổ biến khiến cho cầu công nghệ còn thấp dù chính phủ đã rất nỗ lực đưa ra nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của TTCNC.


Kết luận chương 3

Trong thời gian vừa qua, TTCNC ở Việt Nam đã có bước phát triển do tận dụng được các cơ hội của quá trình HNKTQT mang lại. Sự phát triển này thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau về số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường như: số lượng, chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC ngày càng gia tăng; Nhu cầu về hàng háo CNC của các chủ thể ngày càng gia tăng; Số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian môi giới trên TTCNC có sự phát triển và ngày càng gia tăng

Tuy nhiên, nhìn tổng thể, đến nay TTCNC ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, các yếu tố cấu thành thị trường chưa phát triển đồng bộ, năng lực của nhiều chủ thể trên TTCNC còn thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của nền kinh tế nước ta hiện nay cụ thể là gia tăng về số lượng và chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC còn chưa nhiều; nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC còn nhiều hạn chế; số lượng và chất lượng các tổ chức dịch vụ trung gian trên TTCNC còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Những thành tựu trong quá trình phát triển TTCNC thời gian qua có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng; tiềm lực KHCN của nước ta ngày càng được tăng cường và phát triển; hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý KHCN ngày càng được hoàn thiện; xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và có những biểu hiện mới; nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng

Bên cạnh đó những hạn chế trong phát triển TTCNC hiện nay bắt nguồn từ những nguyên nhân cụ thể như sau: Chính sách thúc đẩy và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ còn bất hợp lý, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển; cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN còn hạn chế; hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, bất cập; mô hình doanh nghiệp KHCN là mô hình mới, đòi hỏi nhiều cơ chế hoạt động đặc thù; cơ chế quản lý các tổ chức KHCN công lập còn nhiều bất cập

Vì vậy, trên cơ sở những thành tựu và hạn chế cần có những quan điểm, giải pháp phù hợp nhằm hạn chế những tồn tại và phát huy các thế mạnh đã đạt được nhằm phát triển TTCNC trong thời gian tới đạt kết quả tốt góp phần nâng cao tiềm lực KHCN đất nước.


Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ CAO Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030

4.1. Quan điểm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam đến năm 2030

4.1.1. Phải bảo đảm vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước đối với sự phát triển thị trường công nghệ cao

Có thể thấy rằng nhà nước là một chủ thể quan trọng tham gia TTCNC. Bên cạnh vai trò có thể là người cung hay cầu đối với sản phẩm CNC, Nhà nước còn có tư cách là người quản lý, điều hành, định hướng đối với các hoạt động của thị trường. Vai trò này thể hiện chủ yếu là tạo cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý cho các hoạt động thị trường. Đối với TTCNC với những đặc thù như đã trình bày, thì vai trò quản lý của Nhà nước lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng do vậy để thực hiện tốt vai trò của Nhà nước trong việc định hướng quản lý và phát triển TTCNC trong thời gian tới cần thực hiện một số yêu cầu như sau:

Thứ nhất, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích cho các doanh nghiệp đổi mới phát triển, đặc biệt là ưu đãi sự liên kết giữa các tổ chức CNC với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh…Các chính sách này được thực hiện thông qua việc tạo điều kiện cho các cơ chế kiêm nhiệm và di chuyển nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sang các tổ chức CNC và ngược lại, thực hiện ưu tiên về nguồn vốn đầu tư của Nhà nước đối với các hình thức liên kết này. Ngoài ra, thực hiện tốt chính sách miễn giảm thuế với các hoạt động đổi mới công nghệ, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các hoạt động phát triển, nhập khẩu CNC, công nghệ tiên tiến của các tổ chức CNC và các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, Nhà nước trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tư cho KHCN từ nguồn ngân sách để thực hiện một số hoạt động KHCN có tầm quan trọng đối với việc phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, sự


phát triển và ổn định quốc gia. Trên cơ sở gia tăng đầu tư NSNN của nhà nước hướng tới mục tiêu thúc đẩy các yếu tố cơ bản của TTCNC, xây dựng kết cấu hạ tầng, hoàn thiện môi trường và tài trợ cho các hoạt động mà khu vực kinh tế tư nhân không muốn làm như nghiên cứu cơ bản.

Ngoài ra, bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ NSNN cần phải chú trọng việc đa dạng hóa, thu hút vốn đầu tư từ xã hội, đặc biệt là từ các doanh nghiệp… thông qua việc thúc đẩy gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các tổ chức KHCN, các trường đại học, viện nghiên cứu trên phạm vi cả nước. Mặt khác nhằm huy động vốn cho TTCNC phát triển chúng ta cần quan tâm đến việc hình thành các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm và để nguồn vốn đầu tư mạo hiểm phát triển và hoạt động hiệu quả Việt Nam cần xây dựng hệ thống khuôn khổ pháp luật, chính sách và có những cơ chế ưu đãi cho các hoạt động này.

Thứ ba, Nhà nước đóng vai trò xúc tác, tạo điều kiện cho TTCNC hoạt động thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật và tạo môi trường thuận lợi để những người mua và người bán các sản phẩm CNC đến với nhau, trên cơ sở đó có thể trao đổi sản phẩm và bảo đảm lợi ích của họ đối với các sản phẩm CNC được giao dịch; Các quy tắc, luật lệ do Nhà nước ban hành trong lĩnh vực này thường bao gồm những quy định liên quan tới việc đăng ký để được công nhận quyền sở hữu trí tuệ; các quy định về mua bán, trao đổi, CGCN và đặc biệt là những thủ tục xử lý tranh chấp khi các quyền lợi liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ bị vi phạm.

4.1.2. Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam phải phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững

Việc phát triển TTCNC phải căn cứ vào đặc điểm của nền kinh tế nước ta là nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở một nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi, nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mô hình quản lý để từ đó xác định một phương pháp, bước đi và mô hình phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nước ta, tránh tình trạng dập khuôn, bắt chước mô hình bên ngoài, đi quá xa với hiện trạng của nền kinh tế nước ta.


Trong thời gian tới, lộ trình và mô hình phát triển TTCNC nước ta cần phải đảm bảo một số yêu cầu như sau:

Thứ nhất, tăng cường vai trò điều hành định hướng của nhà nước trong việc phát triển TTCNC.

Nội dung quản lý Nhà nước về thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng đan xen trong các văn bản pháp luật của Nhà nước về quản lý KHCN. Vì vậy trong thời gian tới, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm quản lý Nhà nước về TTCNC của các bộ, ngành và địa phương (hiện nay mới có Bộ KHCN có cơ quan chuyên trách quản lý thị trường KHCN là Cục Thị trường và Doanh nghiệp KHCN). Nội dung quản lý Nhà nước về TTCNC cần được điều chỉnh và bổ sung trong các văn bản pháp luật có liên quan, trong đó phải cụ thể hoá trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý Nhà nước về phát triển TTCNC. Thực hiện việc báo cáo và thống kê định kỳ về thị trường KHCN nói chung và TTCNC nói riêng.

Thứ hai, thúc đẩy cầu trên TTCNC, trong đó chủ yếu là thúc đẩy cầu hàng hoá CNC của doanh nghiệp.

Trên cơ sở hệ thống thể chế, chính sách phát triển TTCNC, chúng ta cần phải thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp và phải xác định doanh nghiệp là hạt nhân, là chủ thể chính trong cầu về hàng hoá CNC. Điều này có cơ sở khách quan từ sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng của quá trình HNKTQT buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới sản xuất, từ đó thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Trên cơ sở thực hiện tốt một số nội dung như: (i) nhận dạng được nhóm các doanh nghiệp có triển vọng để phát triển cầu công nghệ; (ii) trên cơ sở đó làm cho các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới mô hình kinh doanh của họ theo hướng dựa vào công nghệ; (iii) nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp hoặc giúp các doanh nghiệp hạn chế được các điểm yếu về năng lực hấp thụ công

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 07/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí