Thực Hiện Chính Sách Ưu Đãi Thuế Linh Hoạt Để Thúc Đẩy Sự Phát Triển Của Thị Trường Công Nghệ Cao


Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ NSNN, cần phải: (1) Thực hiện việc phân bổ và cấp kinh phí ngân sách nhà nước theo cơ chế khoán, cơ chế đấu thầu tuyển chọn và từ nhu cầu thực tiễn; (2) Thực hiện việc đánh giá và quản lý các dự án KHCN được đầu tư từ nguồn NSNN theo kết quả sản phẩm đầu ra trên cơ sở kinh phí, nhiệm vụ được giao; (3) Hoàn thiện lại hệ thống các cơ quan quản lý, phân bổ NSNN về KHCN theo hướng tinh gọn, hợp lý và hiệu quả; (4) Từng bước xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước đổi với một số hoạt động nghiên cứu ứng dụng; (5) Giao quyền tự chủ về tài chính cho các tổ chức KHCN và khuyến khích các tổ chức này thực hiện cơ chế tự trang trải kinh phí, theo mô hình doanh nghiệp.

Ngoài ra, trong điều kiện HNKTQT, nhà nước cần phải tạo điều kiện cho các tổ chức, nhà khoa học nước ngoài tham gia giải quyết các nhiệm vụ KHCN của nhà nước. Nhà nước chỉ giao cho các tổ chức KHCN CNC, các nhà khoa học trong nước thực hiện các đề tài, dự án phục vụ trực tiếp trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước. Đối với những nhiệm vụ KHCN khác do nhà nước đặt hàng, nên tạo điều kiện thuận lợi và bình đẳng cho các tổ chức, nhà khoa học nước ngoài tham gia đấu thầu cạnh tranh để thực hiện nhiệm vụ đó. Điều này sẽ giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ KHCN của nhà nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình.

4.2.1.3. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế linh hoạt để thúc đẩy sự phát triển của thị trường công nghệ cao

Thực hiện việc miễn giảm thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động đổi mới công nghệ như: sản xuất thử nghiệm, sản xuất sản phẩm mới, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ. Miễn thuế cho các hoạt động trung gian, môi giới trên TTCNC như: triển lãm, giới thiệu sản phẩm mới, hội chợ công nghệ, thiết bị. Miễn giảm tiền thuê đất để làm nơi nghiên cứu, sản xuất sản phẩm mới cho các doanh nghiệp và tổ chức KHCN. Cho phép để lại phần lãi thu nhập trước thuế của doanh nghiệp để đầu tư vào


các dự án phát triển công nghệ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Miễn, giảm thuế nhập khẩu các thiết bị phục vụ hoạt động KHCN và các thiết bị tiên tiến, CNC. Tránh tình trạng lợi dụng chính sách thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước nhằm duy trì độc quyền, không thay đổi tư duy mới phù hợp với điều kiện thực tiễn, CGCN hiện đại của nhiều doanh nghiệp, chính sách thuế nhập khẩu cần phải linh hoạt, đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tránh bảo hộ tràn lan.

Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế, phí, lệ phí đối với việc thành lập mới các doanh nghiệp KHCN hoặc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang cơ chế doanh nghiệp. Đánh thuế môi trường và có các chế tài nghiêm khắc đối với các cơ sở sử dụng công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm để buộc họ phải đổi mới và sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, không gây ô nhiễm. Đảm bảo và tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia thị trường KHCN tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng vởỉ lãi suất thấp.

Ở nước ta, nguồn vốn tín dụng sẽ là nguồn vốn quan trọng thúc đẩy phát triển TTCNC. Nguồn vốn này hướng vào việc phục vụ các chủ thể đi tiên phong trong R&D công nghệ với các tiêu chí như: lượng vốn và thời gian vay hợp lý, lãi suất ưu đãi và thủ tục vay gọn nhẹ. Để làm được điều này, cần chú trọng các nội dung sau:

Đơn giản hoá các điều kiện vay vốn triển khai các dự án KHCN. Để được vay vốn, thông thường phải có tài sản thế chấp hoặc phải có sự bảo lãnh của tổ chức có uy tín. Đối với các tổ chức KHCN ở nước ta thì hình thức bảo lãnh là phù hợp nhất. Đối tượng đứng ra bảo lãnh có thể là cơ quan chủ quản hoặc là tổ chức thụ hưởng kết quả nghiên cứu khoa học.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Thẩm định hồ sơ vay vốn cần xem xét tới tính đặc thù của hoạt động KHCN, đây là hoạt động nghiên cứu sản xuất thử và thực nghiệm nên khó tính toán lỗ lãi và có nhiều rủi ro, do vậy việc thẩm định hồ sơ vay cần có cơ chế riêng, đặc thù cho các hoạt động KHCN.

Tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể tham gia TTCNC tiếp cận với quỹ phát triển KHCN. Hiện nay, Chính phủ đã thành lập Quỹ phát triển KHCN quốc

Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam - 18


gia. Tuy nhiên, để phát huy chức năng, vai trò của quỹ này, trong thời gian tới cần hoàn thiện mô hình quỹ, nâng cao tiềm lực tài chính của quỹ.

Thành lập hệ thống tổ chức tín dụng riêng, đặc thù nhằm mục đích hỗ trợ các hoạt động KHCN. Trong điều kiện hiện nay, khi các tổ chức tín dụng hoạt dộng theo cơ chế thị trường, việc vay vốn với lãi suất ưu đãi khó có thể thực hiện được nếu không có hệ thống tín dụng phát triển KHCN riêng. Vì vậy cần có một hệ thống tổ chức tín dụng hỗ trợ phát triển KHCN dưới dạng một ngân hàng đặc biệt để cho các dự án KHCN vay với lãi suất ưu đãi.

4.2.1.4. Hoàn thiện chính sách nhập khẩu công nghệ, nhất là công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam.

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, vấn đề tiếp cận các công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một nội dung rất quan trọng đối với các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhằm khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến và hạn chế những công nghệ cũ, lạc hậu từ nước ngoài vào Việt Nam, nhà nước cần có quy định về thẩm định các công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam nhằm tăng cường công tác kiểm tra chất lượng công nghệ thông qua các nội dung như: xác định rò những tiêu chuẩn, những giới hạn nhất định đối với các công nghệ được chuyển giao; thực hiện sự giám định và kiểm tra đối với các công nghệ được chuyển giao; tổ chức nắm bắt thông tin về năng lực công nghệ, trình độ công nghệ của các quốc gia, tập đoàn quốc tế...

Để khuyến khích việc đầu tư, chuyển giao các CNC vào Việt Nam nhà nước phải kịp thời sửa đổi những quy định không phù hợp liên quan đến hoạt động CGCN cao, hoàn thiện cơ chế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành CNC theo hướng: (1) đưa ra các biện pháp ưu đãi lớn cho đầu tư vào ngành CNC, các ưu đãi này phải mang tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực; (2) Thực hiện tổt việc bảo hộ quyền SHTT nhằm giúp các đối tác nước ngoài yên tâm khi đầu tư vào vào ngành CNC ở Việt Nam.


Đổi mới công tác xúc tiến đầu tư và CGCN theo hướng từ hoạt động xúc tiến chung theo thị trường sang xúc tiến theo địa chỉ nhằm thu hút trực tiếp các nhà đầu tư nước ngoài có trình độ CNC vào Việt Nam đầu tư. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cần chủ động tìm hiểu, đặt quan hệ và tiếp cận với các chủ thể có năng lực KHCN phát triển, trình độ cao trên thế giới và khuyến khích họ đầu tư hoặc liên kết với các chủ thể trong nước.

4.2.2. Phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ hàng hóa công nghệ cao trên thị trường công nghệ cao

Phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC là giải pháp hết sức quan trọng trong phát triển TTCNC ở nước ta hiện nay. Nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC hiện nay bao gồm các chủ thể cung trong nước và cung ngoài nước. Cung sản phẩm, dịch vụ CNC là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành TTCNC. Qua quá trình đánh giá thực trạng phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian qua cho thấy chất lượng và số lượng sản phẩm và dịch vụ CNC còn nhiều hạn chế, tuy có sự gia tăng nhưng không ổn định … Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có hình thành và phát triển các doanh nghiệp KHCN chưa cao, các hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm tạo vốn cho các dự án KHCN chưa nhiều và chưa hiệu quả; số tổ chức KHCN đạt chuẩn quốc tế còn ít … Do vậy, cần phải có những giải pháp để khắc phục hạn chế trên, góp phần phát triển TTCNC ở Việt Nam thời gian tới. Các biện pháp cần thực hiện bao gồm:

4.2.2.1. Thúc đẩy việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ

Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp KHCN được hình thành từ hai nguồn chính là chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập thành doanh nghiệp và hình thành các doanh nghiệp KHCN mới trên cơ sở các kết quả nghiên cứu mới. Trong thời gian tới, giải pháp để thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp KHCN như sau:


Thứ nhất, khắc phục những bất cập trong việc chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập sang mô hình doanh nghiệp.

Trong thời gian vừa qua việc chuyển đổi các tổ chức KHCN công lập sang mô hình doanh nghiệp còn chậm và có nhiều bất cập nảy sinh, do vậy để thúc đẩy quá trình chuyển đổi này, cần phải khắc phục các vấn đề như sau:

Xác định rò quyền sở hữu các văn bằng bảo hộ, sáng chế trong đơn vị sự nghiệp KHCN công lập khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp. Các văn bằng bảo hộ, sáng chế của đơn vị sự nghiệp KHCN công lập có nhiều chủ sở hữu khác nhau như nhà nước, tổ chức KHCN hay của cá nhân nhà khoa học. Khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp, giá trị các văn bằng thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu chung của tổ chức KHCN rất khó xác định là thuộc về ai, do vậy cản trở cho việc chuyển đổi các tổ chức KHCN sang mô hình doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, nên quy định các văn bằng, sáng chế thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu chung của các tổ chức KHCN khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp là sở hữu của nhà khoa học tạo ra các sáng chế đó nhưng nhà khoa học phải có trách nhiệm nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền theo một tỷ lệ nhất định khi thương mại hoá các văn bằng bảo hộ và sáng chế đó.

Xác định rò quyền lợi của các nhà khoa học khi tổ chức KHCN mà họ đang làm việc chuyển sang mô hình doanh nghiệp KHCN và sử dụng kết quả nghiên cứu của họ. Khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp, các nhà khoa học có thể là cổ đông hoặc là thành viên trong doanh nghiệp KHCN. Nếu các nhà khoa học không có nhu cầu tham gia vào doanh nghiệp, doanh nghiệp KHCN có thể trả tiền mua toàn bộ hoặc trả dần hàng năm giá trị kết quả nghiên cứu sản phẩm KHCN. Đảm bảo những lợi ích cơ bản cho đội ngũ cán bộ của tổ chức KHCN khi chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp. Khi chuyển đổi, chế độ lương của dội ngũ cán bộ cũng sẽ được chuyển đổi sang thang bảng lương của doanh nghiệp. Đây là vướng mắc lớn nếu như mức lương của đội ngũ cán bộ thấp hơn mức lương cũ. Do vậy, cần phải tăng lương và có chính sách ưu tiên về chế độ lương cho đội ngũ cán bộ của các tổ chức KHCN khi chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp.


Thứ hai, thực hiện việc bồi dưỡng tinh thần doanh nhân nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh của các nhà khoa học.

Để thúc đẩy việc hình thành các doanh nghiệp KHCN từ các nhà khoa học, cần phải bồi dưỡng tinh thần kinh doanh nhằm giúp các nhà khoa học khai thác và thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu KHCN của họ. Việc bồi dưỡng tinh thần doanh nhân được thực hiện thông qua các khoá đào tạo, các hội nghị, hội thảo trao đổi về tinh thần doanh nhân với các nội dung về quản lý công nghệ, quản trị doanh nghiệp... để giúp họ có tinh thần và bước khởi đầu tốt cho việc hình thành các doanh nghiệp KHCN.

Thứ ba, phát triển hình thức vườn ươm doanh nghiệp

Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát triển các doanh nghiệp KHCN thì mô hình vườn ươm doanh nghiệp được xác định là phù hợp nhất. Vườn ươm doanh nghiệp được xây dựng để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp thông qua việc cung cấp các dịch vụ và các nguồn lực hỗ trợ như cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, tư vấn kỹ thuật, thủ tục pháp lý, hành chính... Mục tiêu chính của vườn ươm doanh nghiệp là nhằm tạo ra các doanh nghiệp hoạt động thành công trên thị trường sau khi rời khỏi vườn ươm. Đối với mô hình vườm ươm doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian tới, mô hình hợp lý nhất là mô hình có sự liên kết công - tư theo hình thức doanh nghiệp. Mô hình này sẽ vừa nhận được sự hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước vừa phát huy tính năng động, sáng tạo của khu vực tư nhân.

Để vườn ươm doanh nghiệp phát triển và có tính khả thi, trước hết các vườn ươm này phải đảm bảo có được cơ sở vật chất hợp lý, đội ngũ nhân lực thích hợp và có sự hỗ trợ ưu đãi của nhà nước như miễn giảm thuế cho doanh nghiệp được ươm tạo, tạo điều kiện cho việc tiếp cận nguồn tài chính, đơn giản hoá các thủ tục hành chính,...

4.2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm tạo vốn cho các dự án khoa học công nghệ

Để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trên TTCNC, giải pháp cơ bản nhất là phát triển các hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm. Để phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm cần có các biện pháp như sau:


Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển quỹ đầu tư mạo hiểm. Chính phủ cần có các quy định cụ thể hướng dẫn hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm như: phạm vi đầu tư mạo hiểm, các lĩnh vực khuyến khích đầu tư, quy chế thành lập và hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm. Khi hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm đã phát triển, nhà nước cần tiến tới ban hành riêng một đạo luật về quỹ đầu tư mạo hiểm.

Hai là, hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc sở hữu nhà nước và quỹ đầu tư mạo hiểm liên doanh.

Trong quá trình hoạt động ban đầu, quỹ đầu tư mạo hiểm cần có sự trợ giúp từ nhà nước, sau đó nguồn thu từ các khoản đầu tư của quỹ mạo hiểm sẽ tự bổ sung để quỹ phát triển. Quỹ đầu tư mạo hiểm thuộc sở hữu nhà nước có thể hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau như: các quỹ thuộc Trung ương quản lý, các quỹ địa phương, các quỹ trực thuộc các trường đại học. Mục đích của quỹ là hỗ trợ cho các dự án ươm tạo và đổi mới công nghệ trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề và ở nhiều địa phương khác nhau. Để quỹ này hoạt động có hiệu quả, Chính phủ thuê các chuyên gia quản lý quỹ có kinh nghiệm và ràng buộc trách nhiệm như: cơ chế tiền lương, thưởng từ lợi nhuận của quỹ,...

Hình thành các quỹ liên doanh trên cơ sở nhà nước góp vốn với các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín. Quỹ liên doanh này vừa có kinh nghiệm quản lý quỹ của các tổ chức tài chính quốc tế vừa có uy tín do sự bảo lãnh của Nhà nước. Vai trò của nhà nước đối với quỹ này là việc tạo dựng niềm tin và khuyến khích đầu tư mạo hiểm vào quá trình đổi mới, nhà nước không nên can thiệp sâu vào hoạt động cụ thể của quỹ liên doanh.

Khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm. Việc khuyến khích phát triển các kênh tín dụng hỗ trợ cho hoạt động quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm gia tăng lượng vốn đầu tư mạo hiểm cho quỹ. Các ngân hàng sẽ cho quỹ đầu tư vốn mạo hiểm vay với các mức lãi suất ưu đãi và với cơ chế bảo đảm tiền vay.

Ba là, thực hiện chính sách ưu đãi về thuế cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm.

Hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm thường tiềm ẩn nhiều rủi ro, do vậy, Chính phủ cần khuyến khích phát triển các hình thức đầu tư vốn mạo hiểm


thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Chính sách thuế cũng cần ưu đãi đối với phần thu nhập phát sinh của nhà đầu tư góp vốn vào quỹ, nhằm thu hút các nguồn vốn từ các cá nhân và nhà đầu tư.

4.2.2.3 Chủ động nâng cao năng lực của các tổ chức khoa học công nghệ, xây dựng một số tổ chức khoa học công nghệ đạt chuẩn quốc tế

Các tổ chức KHCN muốn phát triển thì nhiệm vụ trọng tâm là phải tự đổi mới, nâng cao năng lực của mình để chủ động tham gia và thích ứng với hoàn cảnh mới thông qua các giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực KHCN theo chuẩn quốc tế.

Theo thống kê, nguồn nhân lực KH&CN thời gian qua phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 67.000 cán bộ nghiên cứu (đạt 7 người/vạn dân); trong đó, nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Đội ngũ nhân lực tăng nhanh là nhân tố quan trọng giúp hoạt động KH&CN đóng góp đáng kể trong việc cải thiện chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc đầu tư cho KH&CN những năm qua cũng có bước tiến vượt bậc. Để cạnh tranh được trong bối cảnh các công nghệ phát triển nhanh như hiện nay, nguồn nhân lực phải đáp ứng yêu cầu và tiêu chuẩn rất cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nhưng nguồn nhân lực của nước ta theo các chuyên gia đánh giá vẫn còn một khoảng cách không nhỏ với đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, việc đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực bậc cao ở những lĩnh vực then chốt và lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh cần được quan tâm nhiều hơn.

Do đặc thù lao động của nhân lực KHCN là lao động sáng tạo, cần tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao, nên việc đổi mới cơ chế quản lý nguồn nhân lực CNC trong các tổ chức KHCN công lập phải hướng vào việc phát huy tính sáng tạo của đội ngũ này. Để thực hiện được việc này cần đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KHCN như sau:

Hàng năm tiến hành rà soát, đánh giá khách quan đội ngũ cán bộ hiện có và quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ có năng lực chuyên môn, tâm huyết, trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt. Chuyển đổi mô hình

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 07/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí