được giao dịch mua bán trên TTCNC. Hình thành và phát triển mạng lưới các tổ chức trung gian TTCNC đối với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, phát huy vai trò của các hiệp hội ngành hàng và nhà đầu tư trong việc tìm kiếm, lựa chọn, giao dịch và ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC.
Dịch vụ môi giới, trung gian đóng vai trò quan trọng trong việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu đối với hàng hóa công nghệ. Các dịch vụ trung gian cơ bản của TTCN gồm: dịch vụ thông tin công nghệ; tư vấn về quản lý công nghệ và CGCN; đánh giá, định giá tài sản công nghệ; dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng, quảng cáo tiếp thị, môi giới; dịch vụ tài chính; dịch vụ SHTT,...Tuy nhiên, trong thời gian qua, hệ thống các tổ chức trung gian, môi giới ở nước ta còn nhiều bất cập, chưa đảm nhận đầy đủ vai trò gắn kết cung - cầu trên TTCNC, do vậy, trong thời gian tới, để thực hiện tốt hơn kết nối cung cầu công nghệ góp phần phát triển TTCNC, nhà nước cần thực hiện một số biện pháp cụ thể sau đây:
4.2.4.1. Hình thành các tổ chức trung gian, môi giới chuyên tư vấn về hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế
Nhằm trợ giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC tận dụng được cơ hội trong bối cảnh HNKTQT, cần thiết phải hình thành một số tổ chức trung gian, môi giới nhằm tư vấn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ các hoạt động hội nhập, giao lưu quốc tế. Các tổ chức này có chức năng chính là làm cầu nối để hỗ trợ các chủ thể Việt Nam tiếp xúc, giao lưu, hợp tác với các đối tác nước ngoài. Trước mắt, các tổ chức trung gian, môi giới này hoạt động theo cơ chế tự chịu trách nhiệm về tài chính, có sự hỗ trợ kinh phí ban đầu từ nguồn ngân sách nhà nước.
4.2.4.2. Phát triển hạ tầng quốc gia của thị trường công nghệ cao, tiếp tục củng cố các tổ chức trung gian, môi giới hiện có và khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển các tổ chức trung gian, môi giới, đặc biệt là đầu tư từ khu vực nước ngoài
Đầu tư, nâng cấp và phát triển sàn giao dịch công nghệ quốc gia, sàn giao dịch công nghệ tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số sàn giao dịch công nghệ cấp vùng.
Liên kết các sàn giao dịch công nghệ quốc gia, các sàn giao dịch công nghệ vùng và địa phương, phát triển mạng lưới các điểm kết nối cung cầu trong cả nước về thị trường KHCN, thực hiện liên thông giữa thị trường KHCN trong nước với thị trường quốc tế.
Xây dựng và phát triển cơ sở dữ liệu tích hợp, dùng chung về thị trường KHCN, bao gồm các dữ liệu, thông tin về cung - cầu công nghệ, các kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ (sáng chế, giải pháp hữu ích, thiết kế mạch tích hợp), các tài liệu về đo lường, tiêu chuẩn, chất lượng, hàng rào kỹ thuật, công cụ bảo hộ mậu dịch, các tổ chức trung gian, các chuyên gia tư vấn về thị trường KHCN. Vận hành có hiệu quả cổng giao dịch công nghệ quốc gia liên thông với các sàn giao dịch công nghệ trong nước và quốc tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Phải Bảo Đảm Hài Hoà Lợi Ích Của Các Chủ Thể Tham Gia Thị Trường Công Nghệ Cao Trên Cơ Sở Tôn Trọng Các Quy Luật Kinh Tế Thị Trường
- Thực Hiện Chính Sách Ưu Đãi Thuế Linh Hoạt Để Thúc Đẩy Sự Phát Triển Của Thị Trường Công Nghệ Cao
- Tạo Lập Và Thúc Đẩy Nhu Cầu Sản Phẩm, Dịch Vụ Hàng Hóa Công Nghệ Cao Trên Thị Trường Công Nghệ Cao
- Phát Triển Và Hoàn Thiện Các Quỹ Hỗ Trợ Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Cho Các Chủ Thế Trên Thị Trường Công Nghệ Cao
- Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam - 22
- Danh Mục Văn Bản Pháp Luật Về Khoa Học Và Công Nghệ Được Ban Hành Đến Năm 2019
Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.
Mặt khác, để hoàn thiện các tổ chức trung gian, môi giới hiện có, Nhà nước cần cải tổ và củng cố những tổ chức đã có theo hướng chuyên môn hoá vào một số lĩnh vực hiện nay chưa phát triển như lĩnh vực đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ. Đồng thời, nhà nước cần lựa chọn các tổ chức trung gian, môi giới trọng điểm để có chính sách hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC. Nhà nước cũng cần phải đẩy mạnh việc xã hội hoá các tổ chức trung gian, môi giới, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, đưa ra các ưu đãi về tài chính và hỗ trợ về thủ tục nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế, kể cả các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh vào hoạt động cung cấp dịch vụ trung gian, môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC.
4.2.4.3 Nhà nước đưa ra những quy định cụ thể về năng lực, phẩm chất của các cá nhân, tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới.
Điều này xuất phát từ thực tế là trong bối cảnh thực tiễn, các doanh nghiệp và các chủ thể trên TTCNC không muốn sử dụng dịch vụ tư vấn, môi giới do không muốn chia sẻ thông tin và do hạn chế về trình độ, năng lực của các tổ chức trung gian, môi giới. Do vậy nhà nước cần có các quy định về trình độ chuyên môn và nguyên tắc đạo đức của đội ngũ tư vấn,
môi giới bằng việc cấp chứng chỉ hành nghề trung gian, tư vấn và đưa ra ràng buộc pháp lý buộc các chuyên gia tư vấn phải tuân thủ nguyên tắc giữ bí mật thông tin cho khách hàng.
4.2.4.4. Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực trung gian, môi giới khoa học công nghệ
Các tổ chức trung gian, môi giới cần phải chú trọng công tác phát triển đội ngũ cán bộ, chuyên gia môi giới, bởi vì đây là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo chất lượng tư vấn, môi giới. Các tổ chức trung gian, môi giới phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác trung gian, môi giới sản phẩm, dịch vụ CNC, trong đó chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài theo tiêu chuẩn quốc tế. Để phát triển đội ngũ này, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nên tập trung vào các vấn đề như kỹ năng đàm phán, soạn thảo hợp đồng CGCN, những vấn đề pháp lý trong mua bán hàng hoá CNC, phương pháp đánh giá và định giá công nghệ. Ngoài ra, các tổ chức trung gian, môi giới cũng cần có biện pháp thu hút các nhà khoa học có trình độ cao đã nghỉ hưu và có nhiều kinh nghiệm để tham gia vào các tổ chức này.
4.2.4.5. Hình thành những tổ chức hoạt động tư vấn, môi giới riêng cho một số đối tượng đặc thù và các hiệp hội các tổ chức trung gian, môi giới do Nhà nước đỡ đầu.
Do các chủ thể khác nhau sẽ có những yêu cầu về dịch vụ CNC khác nhau, do vậy, để đáp ứng được nhu cầu này, trong thời gian tới cần phải hình thành các tổ chức trung gian, môi giới cho một số đối tượng đặc thù, trước hết là cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cho lĩnh vực nông nghiệp.
Hiệp hội đại diện cho các tổ chức trung gian, môi giới trước cơ quan quản lý nhà nước và công chúng, là nơi tập hợp các đề xuất, kiến nghị của tổ chức trung gian, môi giới thành viên đối với nhà nước, đồng thời nhà nước thông qua hiệp hội để có sự quản lý thống nhất, tập trung đối với các tổ chức trung gian, môi giới này. Giúp cho việc bảo vệ các tổ chức thành viên trước sức ép cạnh tranh từ các tổ chức trung gian, môi giới nước ngoài và giúp mở rộng thị trường quốc tế cho các tồ chức trung gian, môi giới trong nước.
Hình thành hiệp hội các tổ chức trung gian, môi giới là một chiến lược quan trọng trong bối cảnh HNKTQT. Hiệp hội sẽ kết hợp, liên kết các tổ chức trung gian, môi giới lại với nhau để nâng cao vị thế các tổ chức trung gian, môi giới. Hiệp hội sẽ giúp cho các tổ chức trung gian, môi giới thành viên các nhiệm vụ sau đây như liên kết và kết nối các tổ chức trung gian, môi giới thành một hệ thống gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc trao đổi, cung cấp, chia sẻ thông tin, hợp tác kinh doanh nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của chủ thể trên TTCNC; Hỗ trợ cho các tổ chức trung gian môi giới nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
4.2.4.6. Thúc đẩy phát triển nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao, nâng cao năng lực hấp thụ, tiếp thu, làm chủ và áp dụng công nghệ tại các doanh nghiệp và đẩy mạnh phát triển nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị trường công nghệ cao
Hỗ trợ nâng cao nhận thức về đổi mới sáng tạo, năng lực hấp thụ công nghệ,lựa chọn công nghệ, hiểu biết pháp lý về chuyển giao, xuất nhập khẩu công nghệ.
Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xác định nhu cầu, tìm kiếm, lựa chọn, thương thảo, ký kết hợp đồng CGCN từ các nguồn trong nước và nước ngoài.Chú trọng vào các ngành hàng chiếm tỉ trọng cao.
Cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời về các rào cản kỹ thuật và chính sách bảo hộ thương mại tại các thị trường có liên quan đến hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam.
Hỗ trợ tiếp thu, làm chủ và ứng dụng các sáng chế và bí quyết công nghệ, CGCN tại các doanh nghiệp; chú trọng hỗ trợ các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đòi hỏi các công nghệ sản xuất thông minh, công nghệ I 4.0 và các công nghệ bảo quản, chế biến sâu để đáp ứng yêu cầu của các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết.
Hỗ trợ thương mại hoá, tiếp thu, làm chủ và áp dụng kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ tại các doanh nghiệp, nhất là các kết quả nghiên cứu, tài
sản trí tuệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nướccó khả năng đáp ứng nhu cầu đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.
Phát triển các kênh nhập khẩu công nghệ tiên tiến có hiệu quả từ nước ngoài, nhất là công nghệ từ các nước tiên tiến, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp trong nước, trước hết là đối với một số lĩnh vực công nghiệp/ngành hàng quan trọng.
Hỗ trợ nhập khẩu các công nghệ đa dụng, đa mục đích, công nghệ cốt lòi.Thực hiện các dự án giải mã công nghệ đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo của 3-5 ngành hàng trọng điểm quốc gia theo phương thức đối tác công tư
Thu hút chuyên gia giỏi nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hỗ trợ đổi mới sáng tạo tại các doanh nghiệp và phát triển thị trường KHCN tại Việt Nam.
4.2.5. Đẩy mạnh quá trình mở rộng, liên kết hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện về lĩnh vực KHCN nói chung và TTCNC nói riêng với những đối tác có tiềm lực KHCN lớn, từ đó hướng tới thành lập và mở rộng các Viện/Trung tâm nghiên cứu trọng điểm về phát triển công nghệ quốc gia mang tầm quốc tế là nội dung rất quan trọng. Thời gian qua, Việt Nam tích cực hợp tác quốc tế sâu rộng với nhiều quốc gia về phát triển KHCN cũng như TTCNC, một số tổ chức NCKH và phát triển công nghệ tiên tiến quốc tế đã được Chính phủ cho phép thành lập như: Viện Toán cao cấp, viện nghiên cứu ứng dụng đa ngành, định hướng công nghệ công nghiệp hoạt động theo cơ chế đặt hàng). Các tổ chức này hoạt động theo cơ chế đặc thù với tính tự chủ cao và phát triển xứng tầm quốc tế. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức này rất ít nên cần phải tăng cường mở rộng hợp tác quôc tế với nhiều quốc gia phat triển khác để tạo nên tảng cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở trình độ cao đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và gia tăng xuất khẩu sản phẩm CNC ra nước ngoài trên cơ sở thực hiện một số nội dung như sau:
4.2.5.1. Tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học công nghệ
Thông qua việc tăng cường liên kết, hợp tác quốc tế về KHCN với các tổ chức nước ngoài, các tổ chức KHCN Việt Nam sẽ học hỏi, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm, từ đó nâng cao năng lực và trình độ của mình. Để thực hiện được việc này, các tổ chức KHCN phải chủ động thực hiện các nội dung sau:
Tổ chức KHCN tích cực tham gia mạng lưới nghiên cứu quốc tế, tham gia một số chương trình, đề án nghiên cứu với các tổ chức nước ngoài. Chủ động mời các tổ chức nước ngoài và các nhà khoa học quốc tế tham gia vào các đề tài, chương trình nghiên cứu KHCN của mình. Để từ đó học hỏi và đào tạo cán bộ nghiên cứu trình độ cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Khuyến khích cán bộ khoa học tham gia các hoạt động KHCN với các đơn vị nước ngoài như tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế, trao đổi hợp tác ngắn ngày hoặc dài ngày ở nước ngoài. Cử cán bộ đến làm việc tại cơ quan nghiên cứu của nước ngoài với tư cách là thành viên của nhóm nghiên cứu trong các dự án liên kết, hợp tác quốc tế do nước ngoài chủ trì và tài trợ.
4.2.5.2. Thiết lập hệ thống cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ ở các nước phát triển do nhà nước trực tiếp quản lý.
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực do bối cảnh HNKTQT mang lại, chúng ta phải nắm bắt các thông tin về thực trạng, xu hướng phát triển công nghệ của các quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới. Để thực hiện được việc này, Nhà nước cần phải thành lập một hệ thống các cơ quan đại diện xúc tiến đầu tư và đổi mới công nghệ ở các nước do nhà nước trực tiếp quản lý. Các cơ quan này sẽ trực tiếp tìm hiểu, chọn lọc các nhà đầu tư và làm dịch vụ cho các dự án CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, thu thập các thông tin về các đối tác, các bí quyết công nghệ, chính sách, chiến lược phát triển KHCN của các quốc gia,... Thông qua các cơ quan này, chúng ta thực hiện việc kiểm soát ngay từ đầu chất lượng công nghệ nhập khẩu vào
nước ta, giúp cho các chủ thể tham gia TTCNC tìm kiếm được những CNC, có chất lượng và hạn chế những công nghệ lạc hậu.
4.2.5.3. Thực hiện việc đa dạng hoá và linh hoạt từ trong hoạt động chuyển giao công nghệ từ các chủ thế nước ngoài vào Việt Nam và đồng bộ hoá các tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc tế.
Trong bối cảnh HNKTQT hiện nay, mỗi quốc gia, chủ thể nước ngoài có những thế mạnh nhất định về một loại hình hoạt động KHCN nào đó. Để tận dụng được những ưu thế về KHCN của từng quốc gia, từng chủ thể nước ngoài trên thị trường, các chủ thể Việt Nam cần phải đa dạng hoá kênh CGCN vào Việt Nam. Việc này sẽ giúp cho các chủ thể Việt Nam tiếp nhận được nhiều loại hình công nghệ từ các nước, tránh được các rủi ro gặp phải về CGCN từ nước ngoài.
CGCN từ nước ngoài cũng cần phải được linh hoạt, đa dạng trên các nội dung như: xác định đối tượng CGCN; đối tác CGCN; kênh CGCN; nội dung và phương thức CGCN. Mỗi một hình thức CGCN khác nhau sẽ có những ưu điểm và hạn chế khác nhau, các chủ thể Việt Nam phải căn cứ vào mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn và năng lực cụ thể của mình để chủ động lựa chọn hình thức CGCN từ nước ngoài cho phù hợp.
Đồng bộ các tiêu chuẩn Việt Nam với các tiêu chuẩn quốc tế để tạo ra một chuẩn mực chung trong CGCN giữa các chủ thể tham gia thị trường trong nước và ngoài nước. Hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và áp dụng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế nhằm tăng khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường. Để đáp ứng và phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao các yếu tố nội tại của doanh nghiệp như nâng cao chất lượng lao động, chất lượng quản lý, trình độ kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật....
4.2.5.3. Nâng cao uy tín và xây dựng thương hiệu của các chủ thể trên thị trường công nghệ cao trong điều kiện hội hhập kinh tế quốc tế.
Để chủ động HNKTQT, các chủ thể tham gia TTCNC phải xác định được lợi thế so sánh của mình để xây dựng một chiến lược hội nhập phù hợp,
trong đó chú trọng việc khẳng định uy tín và xây dựng thương hiệu cho tổ chức mình. Trong bối cảnh HNKTQT, việc khẳng định uy tín và thương hiệu có vai trò quan trọng, trở thành một loại tài sản quý của các chủ thể tham gia TTCNC. Nhằm nâng cao uy tín và khẳng định thương hiệu, các chủ thể trên TTCNC cần phải tăng cường các hoạt động quảng bá hình ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, triển lãm, giới thiệu các thành tựu khoa học tại các hội chợ công nghệ để mở rộng các cơ hội giao lưu, hợp tác, tích cực giới thiệu sản phẩm CNC của tổ chức mình trên thị trường quốc tế.
4.2.5.4. Tăng cường sự hợp tác giữa các chủ thể trên thị trường công nghệ cao, đặc biệt là đối với các chủ thể nước ngoài.
Thực tế hiện nay cho thấy, các chủ thể tham gia TTCNC đều cùng một mục tiêu phát triển là nâng cao tiềm lực KHCN quốc gia, gắn kết nghiên cứu KHCN với sản xuất kinh doanh, do vậy để giảm thiểu những tác động tiêu cực từ quá trình HNKTQT, các chủ thể trên TTCNC cần phải tăng cường hợp tác với nhau, đặc biệt là các chủ thể nước ngoài. Sự hợp tác sẽ giúp cho các chủ thể trên TTCNC phát huy được các lợi thế của mình, tương trợ lẫn nhau cùng phát triển, cùng lớn mạnh. Sự hợp tác giữa các chủ thể trên TTCNC được thực hiện theo các liên kết ngang với các mô hình như: hợp tác giữa tổ chức KHCN - tổ chức trung gian, môi giới - doanh nghiệp; giữa các tổ chức KHCN với nhau; giữa các tổ chức trung gian, môi giới với nhau.
Để sự hợp tác giữa các chủ thể trên TTCNC có hiệu quả đòi hỏi các chủ thể phải tăng tính liên kết, hợp tác trong các hoạt động của mình, có sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các hoạt động KHCN. Sự hợp tác của các chủ thể trên TTCNC được thực hiện thông qua các hình thức như: cùng nhau thực hiện, tài trợ cho các dự án, chương trình KHCN, hỗ trợ chuyển giao tri thức và công nghệ; trao đổi, bố trí các cán bộ KHCN đến công tác, làm việc tại đơn vị đối tác, cùng nhau đưa sản phẩm ra thị trường.