Kết Quả Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Du Lịch Ở Tỉnh Thừa Thiên Huế

Hà Nội, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2000, trường Trung học Nghiệp vụ Du lịch Huế ra đời với chức năng đào tạo NNL bậc trung học và thấp hơn cho các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Đến năm 2007 trường được nâng bậc đào tạo Cao Đẳng nghề theo Quyết định số 1876/QĐ-BLĐTBXH ngày 31 tháng 12 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội và đổi tên thành Trường Cao đẳng nghề Du lịch Huế. Hiện tại, trường có 02 cơ sở đang hoạt động (02 cơ sở giảng dạy, 01 cơ sở thực hành) tại các vị trí thuận lợi ngay trung tâm thành phố Huế. Những năm đầu (từ 2000- 2003), trường đào tạo có 3 nghề trung cấp ( lễ tân khách sạn, dịch vụ nhà hàng, chế biến món ăn) và 4 nghề sơ cấp (lễ tân khách sạn, dịch vụ nhà hàng, chế biến món ăn, phục vụ buồng). Từ năm 2004, mở rộng thêm 3 chuyên ngành cho hệ TCCN (Nghiệp vụ lữ hành, quản trị lưu trú, quản trị nhà hàng). Đến năm 2008, trường bắt đầu trình độ cao đẳng nghề. Đội ngũ giáo viên hiện nay 157 người, số có trình độ sau đại học và đang học cao học chiếm trên 20%. Số lượng học sinh đăng ký học cũng tăng nhanh trong thời gian qua: năm 2010- 2011 là 814 học sinh, năm 2011- 2012 là 827 học sinh, năm 2013- 2014 là

912 học sinh.

- Hệ thống đào tạo nghề ở tỉnh Thừa Thiên Huế

Tính đến năm 2014, ngoài cơ sở dạy nghề của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có 16 cơ sở dạy nghề, trong đó có 2 trường cao đẳng nghề, 6 trường trung cấp nghề và 8 trung tâm dạy nghề của các huyện. Cùng với sự phát triển các cơ sở đào tạo nghề, đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng tăng nhanh về số lượng và ngày càng được chuẩn hóa. Theo số liệu thống kê của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, giai đoạn 2013- 2014 tỉnh đã có 9.366 lao động qua đào tạo nghề, đạt 98,5% kế hoạch (cao đẳng nghề 1.290 sinh viên, chiếm 13,7%; trung cấp nghề 895 học sinh, chiếm 9,5%; sơ cấp nghề và dưới 3 tháng có 7.181 học viên, chiếm 76,6%). Trong đó, đã đào tạo nghề cho 3.284 lao động nông thôn (có 825 học nghề nông nghiệp và 2.459 học nghề phi nông nghiệp), đạt 93,8% so với kế hoạch

…Đồng thời, đã và đang triển khai 04 lớp dạy nghề thuyền trưởng, máy trưởng tại các huyện Phú Lộc, Phú Vang và thị xã Hương Trà. Dự kiến cả năm 2015 đào tạo

9.911 lao động, đạt 100% kế hoạch đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đến cuối năm 2014 đạt 54%.

Nhìn chung, với mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp khá hoàn chỉnh như ở Huế thì sẽ đáp ứng kịp thời và đầy đủ số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cần thiết cho ngành du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, cũng như tình trạng chung của cả nước, hệ thống đào tạo NNL trong ngành du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế còn nhiều yếu kém, bất cập cả về số lượng, chất lượng, và cơ cấu ngành nghề đào tạo do chưa có sự thống nhất về chương trình đào tạo, chưa xây dựng được nhiều loại chương trình phù hợp với nhu cầu đào tạo của các đối tượng, bố cục chương trình chưa có sự gắn kết giữa các nghiệp vụ trong phần thực hành, chưa được đầu tư phát triển đủ cơ sở vật chất phù hợp với qui mô đào tạo, thiếu cơ sở thực hành, việc tuyển chọn giáo viên đạt tiêu chuẩn khá khó khăn vì một người tốt nghiệp đại học Quản trị Du lịch loại khá thậm chí loại giỏi cũng không đủ năng lực giảng dạy vì thiếu kiến thức về kỹ thuật nghiệp vụ và kỹ năng thực hành như các nghiệp vụ Lễ tân, Bàn - Bar, Bếp và Buồng cho nên NNL trong ngành du lịch vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao về NNL.

2.2.3.2. Kết quả đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

Trong giai đoạn 2010- 2014, số lượng sinh viên ngành quản trị kinh doanh du lịch tốt nghiệp cao hơn nhu cầu tuyển chọn về cán bộ, nhân viên quản lý. Như vậy, về hình thức, nhu cầu về NNL quản lý du lịch được đáp ứng đầy đủ. Trên thực tế các bộ quản lý cấp cao và cấp trung gian rất thiếu vì mục tiêu đào tạo chưa phù hợp, chưa gắn chặt với nhu cầu của người sử dụng.

Hàng năm, các cơ sở đào tạo du lịch trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế cho ra hơn 2500 sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành du lịch ở các cấp (đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề và đào tạo ngắn hạn) và hàng ngàn học viên tốt nghiệp các trường đại học- cao đẳng ngoại ngữ. Đây là một con số rất lớn, đáp ứng kịp thời về số lượng cho công tác phát triển ngành nghề du lịch ở tỉnh và đáp ứng công tác chuẩn bị lực lượng cho các sự kiện lớn thường được tổ chức ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên số lao động tốt nghiệp các khóa đào tạo chính quy này được tuyển dụng vẫn còn hạn chế, thiếu tính kế hoạch.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

Từ xuất phát điểm là cần một số lao động trong ngành du lịch như quản trị kinh doanh du lịch, văn hóa du lịch, địa lý du lịch thì đến nay đã có nhiều chuyên ngành đào tạo về lĩnh vực du lịch ra đời đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của du khách. Các sinh viên tốt nghiệp ra trường đã và đang phát huy tốt năng lực của mình và có nhiều đóng góp quan trọng cho xã hội.

Ngoài hệ chính qui, các cơ sở đào tạo trên địa bàn còn mở rộng hình thức đào tạo, đào tạo thêm hệ vừa học vừa làm và hệ bằng hai với hai chuyên ngành quản trị kinh doanh tổng hợp và quản trị kinh doanh du lịch, tại hầu hết các địa bàn ở miền Trung và Tây nguyên. Đến nay đã đào tạo được 871 cử nhân quản trị kinh doanh tổng hợp hệ vừa học vừa làm. Lực lượng cử nhân này đang đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh, các địa phương ở miền Trung và Tây Nguyên. Đặc biệt có cơ sở đào tạo ngành du lịch còn tổ chức hệ đào tạo cao học quản trị kinh doanh như Khoa Du lịch- Đại học Huế đã tuyển sinh và đào tạo 4 khóa với qui mô 162 học viên, trong đó có 1 khóa (20 học viên) đã ra trường, hầu hết các học viên đều là những hạt nhân quan trọng tại các địa phương, cơ quan và doanh nghiệp.

Phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế - 11

Nhu cầu hướng dẫn viên khá cao nhưng các trường trên địa bàn và trong khu vực chưa đào tạo. Các cơ sở đào tạo chưa có khoa hoặc bộ môn tiếng Đức, Tây Ban Nha, Hàn Quốc, trong khi nhu cầu về hướng dẫn viên và nhân viên khách sạn biết các thứ tiếng đó rất cao.

2.3 Những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lich ở tỉnh Thừa Thiên Huế

2.3.1. Những kết quả đạt được trong phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

- Thứ nhất, quy mô lao động trong ngành du lịch tăng hàng năm, nhưng tốc độ gia tăng dân số thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Do đó, với mức gia tăng dân số vừa phải, đây sẽ là một lợi thế của tỉnh trong việc hoạch định chính sách, giải quyết việc làm mà không lo áp lực lớn về gia tăng dân số.

- Thứ hai, NNL trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ

, số người này sẽ bổ sung vào lực

lượng lao động. Nếu tỉnh có chiến lược đào tạo và sử dụng tốt lực lượng này, tỉnh sẽ có rất nhiều lợi thế để đáp ứng yêu cầu về NNL của tỉnh nói chung, của ngành du lịch nói riêng.

- Thứ ba, trong những năm qua, số lượng NNL du lịch ở không ngừng tăng lên, số lượng phát triển khá nhanh và tương đối đồng đều. Lao động trong ngành du lịch có sự ổn định về tỷ lệ giới tính nam nữ (lao động nữ luôn lớn hơn lao động nam). Tỷ trọng chênh lệch giữa nam - nữ

ngành du lịch có nhiều vị trí công tác cần tỷ lệ nữ nhiều hơn nam, vì đòi hỏi sự khéo léo, mềm dẻo...

- Thứ tư, thể lực của người lao động du lịch về chiều cao, cân nặng, sức khỏe, tuổi thọ...từng bước được cải thiện rõ. Điều này cho thấy, thu nhập điều kiện sống cả về vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện, chất lượng cuộc sống ngày càng đi lên. Bên cạnh đó, nó còn phản ánh các chính sách phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe một cách hiệu quả.

- Thứ năm, chất lượng NNL du lịch ngày càng được nâng cao, không chỉ về trình độ học vấn mà còn cả trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Tỉnh còn có cả một đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý du lịch có chất lượng cao, được đào tạo bài bản trong và ngoài nước. Đây là kết quả quan trọng của quá trình phát triển hệ thống giáo dục đào tạo ở .

- Thứ sáu, các tố chất, kỹ năng, phẩm chất và trình độ ngoại ngữ của NNL du lịch ả năng sáng tạo, năng động, linh hoạt, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp có xu hướng tốt lên, hầu hết lao động trực tiếp kinh doanh du lịch có mong muốn được học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và ngoại ngữ, nhất là ở nhóm lao động trẻ và lao động qua đào tạo. Sự hoàn thiện các tố chất và phẩm chất tâm lý xã hội của NNL không chỉ góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế mà còn tạo thuận lợi cho sự hội nhập NNL của tỉnh vào thị trường lao động của khu vực và thế giới.

- Thứ bảy, qui mô đào tạo chính quy, đào tạo ngắn hạn tăng liên tục. Các hình thức, phương pháp và chương trình đào tạo từng bước được đổi mới theo hướng nâng cao dần hiệu quả đào tạo. Đội ngũ giáo viên dạy các trường đại học, trung học và trường nghề được quan tâm đầu tư phát triển cả về mặt lượng và chất.

- Thứ tám,trong vài năm gần đây, nhận thức về tầm quan trọng của NNL đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch đã có chuyển biến rõ rệt. Một bộ phận doanh nghiệp du lịch, đặc biệt là các cơ sở lưu trú chất lượng cao đã đầu tư thích đáng cho công tác phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp mình, đã phối hợp tốt với các cơ sở đào tạo để tư vấn, tuyển chọn đội ngũ. Công tác hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân lực du lịch của tỉnh ngày càng phát triển.

- Thứ chín, tỷ lệ lao động được đào tạo, bố trí đúng nghề, tỷ lệ lao động được đào tạo lại, lao động có kinh nghiệm nghề nghiệp, có trình độ ngoại ngữ có xu hướng tăng nhanh. Nguồn nhân lực nhìn chung khá trẻ phù hợp với đặc điểm của ngành nghề du lịch.

- Thứ mười, nguồn tuyển chọn nhân lực tại miền Trung nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng là khá phong phú, đủ các cấp bậc đào tạo, quy mô ngày càng được mở rộng với khoảng 500 – 600 học viên tốt nghiệp đại học chuyên ngành du lịch, hơn 2.000 học viên tốt nghiệp trung cấp về dạy nghề chính quy; hàng ngàn học viên được đào tạo các khóa ngắn hạn (3 tháng đến 6 tháng). Ngoài ra, có hàng ngàn học viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng ngoại ngữ, ... đây chính là nguồn nhân lực khá dồi dào cho ngành du lịch.

- Thứ mười một, ngày càng có nhiều doanh nghiệp thuê quản lý (trong nước và nước ngoài), áp dụng mô hình quản trị nguồn nhân lực tiên tiến, làm tốt các khâu tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và duy trì nguồn nhân lực. Tại các đơn vị này, đặc biệt là các liên doanh nước ngoài và các công ty lữ hành lớn, đội ngũ lao động có chất lượng khá cao, cũng như xét trên các mặt phong cách, thái độ nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, kiến thức và trình độ giao tiếp bằng tiếng nước ngoài.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực trong ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

2.3.2.1. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

- Thứ nhất, sự thiếu hụt khá lớn số lượng lao động đủ năng lực quản trị từ cấp thấp đến cấp cao nên rất khó khăn trong việc tuyển chọn được lao động phù hợp vào các vị trí giám sát, quản lý bộ phận, cũng như tổng giám đốc, phó tổng giám đốc. Các đơn vị buộc phải chi khoản tiền rất lớn để thuê người nước ngoài, hoặc phải tìm mọi cách để thu hút lao động từ các đơn vị khác.

- Thứ hai, Huế đang thiếu chuyên gia marketing, các nhà quản lý lữ hành chuyên nghiệp. Mặc dù Huế có nhiều hướng dẫn viên du lịch, nhưng hướng dẫn viên tiếng Anh chiếm 51,5%. Hiện đang thiếu nghiêm trong hướng dẫn viên tiếng Nga, Thái Lan, Lào, Tây Ban Nha, Đức.

- Thứ ba, thiếu nguồn cung cấp nhân lực du lịch trình độ cao, phong cách làm việc chuyên nghiệp cũng đang là mối lo lắng của các nhà tuyển dụng lao động. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh để thu hút lao động có trình độ cao từ các đơn vị khác.

- Thứ tư, tại các khách sạn, nhà hàng tư nhân có quy mô nhỏ, lao động biến động thường xuyên do tâm lý của người lao động vẫn thích làm việc tại các cơ sở kinh doanh có yếu tố Nhà nước hoặc liên doanh. Hơn nữa, tỷ lệ lao động nữ trong tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao (thường trên 50%), gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc bảo đảm nguồn lao động ổn định, đặc biệt là vào mùa cao điểm.

- Thứ năm, không những thiếu, NNL ở Huế hiện tại còn yếu trên nhiều mặt: kỷ luật lao động, tính chủ động, sáng tạo trong công việc, kỹ năng làm việc theo nhóm, trình độ ngoại ngữ, tính kế hoạch, tư duy chiến lược… Đặc biệt, vấn đề vệ sinh, an toàn ít được coi trọng trong khi du khách đặc biệt quan tâm. Theo đánh giá chung của nhiều chuyên gia nước ngoài thì nhân viên du lịch của Huế rất thân thiện, vui vẻ, nhiệt tình, chịu khó, ham học hỏi nhưng kém về kỹ năng quảng bá, giới thiệu và bán sản phẩm, thiếu tính tự tin, tính sáng tạo và năng lực tổ chức công việc.

- Thứ sáu, chất lượng lao động nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu, gây ra sự không ổn định về chất lượng dịch vụ, tỷ lệ khách phàn nàn về chất lượng dịch vụ còn khá cao. Cơ cấu lao động theo nghề nghiệp chưa hợp lý, tỷ lệ lao động gián tiếp cao.

- Thứ bảy, cán bộ quản lý cấp trung gian và cấp cao của nhiều cơ sở kinh doanh chưa hội đủ các tiêu chuẩn, điều hành hoạt động chủ yếu theo kinh nghiệm, yếu về tầm nhìn chiến lược, năng lực tổ chức, điều phối,... .Có sự chênh lệch khá lớn về ý thức, thái độ làm việc, trình độ kỹ thuật và kiến thức nghề nghiệp, kiến thức chung giữa đội ngũ lao động trực tiếp trong các đơn vị liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài với các đơn vị kinh doanh khác.

- Thứ tám, một bộ phận đáng kể lao động chưa hiểu rõ các đặc trưng ngành nghề trước khi bước vào làm việc trong ngành, do vậy chưa thực sự yêu nghề.

- Thứ chín, tổ chức quản lý của nhiều doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Hầu hết các doanh nghiệp chưa xác định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của từng cá nhân ở từng vị trí công việc. Tiêu chuẩn công việc chưa được xây dựng. Người lao động cấp dưới ít chủ động, sáng tạo, thiếu tự tin, các tiềm năng của người lao động chưa được phát huy đầy đủ. Mô hình quản lý nhân lực hiện đại, tiên tiến chỉ mới chủ yếu được áp dụng tại các đơn vị nước ngoài, liên doanh.

- Thứ mười, tình trạng thiếu lao động quản lý giỏi, lao động chuyên môn nghiệp vụ cao và lao động có tay nghề cao (đầu bếp, nhân viên pha chế đồ uống, hướng dẫn viên...) đang là mối lo lắng chung của các doanh nghiệp du lịch. Nhiều cơ sở mới gặp khó khăn trong công tác tuyển chọn giám đốc khách sạn nhà hàng hoặc trưởng các bộ phận.

- Thứ mười một, chưa có sự ổn định cao về đội ngũ lao động trực tiếp kinh doanh du lịch. Tỷ lệ thuyên chuyển lao động trong nội bộ ngành hoặc ra khỏi ngành có xu hướng tăng trong thời gian gần đây do chưa có chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động và chính sách khuyến khích chưa hợp lý, thu nhập quá chênh lệch loại hình giữa các doanh nghiệp du lịch.

- Thứ mười hai, công tác đào tạo NNL cho ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế còn bất cập về mặt: Quy mô, ngành nghề, chương trình, hình thức đào tạo; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo.

2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực của ngành du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

- Một là,Thừa Thiên Huế vẫn là một trong những tỉnh có trình độ phát triển thấp: công nghệ lạc hậu, sự phát triển giữa các vùng chưa đồng đều, năng suất lao động và khả năng tích lũy thấp, vì vậy ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Sự hạn hẹp về nguồn kinh phí đã làm cho việc sử dụng, trọng dụng và đãi ngộ nguồn nhân lực có trình độ cao trở nên hết sức khó khăn. Tiền lương thấp, thêm vào đó lại làm việc trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn cả về phòng làm việc, trang thiết bị, tài liệu nghiên cứu. Đây chính là những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” xảy ra ngày càng báo động ở tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Hai là, phần lớn các doanh nghiệp du lịch chưa nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của NNL chất lượng cao; chưa quan tâm đầu tư chính đáng cho NNL.. Tại nhiều doanh nghiệp chưa có đội ngũ quản lý, đặc biệt là giám đốc nhân sự có tính chuyên nghiệp cao đủ khả năng; chưa xây dựng được tiêu chuẩn dịch vụ và mô tả công việc; chưa thực hiện đúng quy trình tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, chưa quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa sử dụng và bồi dưỡng lao động.

- Ba là, các cơ sở đào tạo du lịch hiện có tại tỉnh Thừa Thiên Huế chưa đủ năng lực đáp ứng tốt nhu cầu phát triển NNL trong ngành du lịch. Hầu hết các khoa, bộ môn đào tạo về quản trị du lịch mới ra đời, chưa đủ điều kiện để tổ chức các ngành đào tạo chuyên sâu hoặc mở thêm ngành đào tạo mới. Các cơ sở đào tạo có khoảng cách khá lớn giữa quy mô, cơ cấu và chất lượng đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp. Chương trình đào tạo tại các trường khá lạc hậu, đào tạo nặng về lý thuyết; việc đổi mới khá chậm chạp do thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, thiếu kinh phí đào tạo (bị bó buộc về cơ chế). Một số chức danh công việc chưa có cơ sở đào tạo đáp ứng với nhu cầu của doanh nghiệp như: Tổng giám đốc, Giám đốc bộ phận trong lĩnh vực lưu trú; nhân viên phục vụ hội nghị, giải trí; ngoại ngữ tiếng Nhật, Hàn, Trung, ... Chất lượng của các nguồn cung ứng lao động nhìn chung chưa tốt, đặc biệt là nguồn cung ứng lao động nhóm quản trị viên cấp cao

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 03/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí