Quan Niệm Về Nguồn Nhân Lực Và Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Ngành Đường Sắt Việt Nam

29


mũi nhọn, nhưng còn chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội, chưa cạnh tranh được với loại hình phương tiện vận tải khác và yêu cầu của sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Giá trị của tổng quan các công trình tiêu biểu có liên quan đến luận án, là tìm ra những khoảng trống, xác định các vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết theo góc độ chính trị - xã hội và phù hợp với tính chất của đề tài luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.

30


Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

2.1. QUAN NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM

2.1.1. Nguồn nhân lựcnguồn nhân lực ngành Đường sắt Việt Nam

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt Việt Nam hiện nay - 5

2.1.1.1. Về nguồn nhân lực

Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực ở các góc độ khác nhau:

Nguồn nhân lực, theo nghĩa rộng, là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cho sự phát triển của một quốc gia, là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng của các nhóm dân cư, cá nhân trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội; có đủ các yếu tố về phẩm chất, về thể lực, trí lực được huy động vào quá trình lao động. Ở một nghĩa nào đó, nguồn nhân lực có thể tương đồng với nguồn lực con người (Hunman Resources), nguồn lao động được sử dụng từ những năm 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước phương tây và một số nước châu Á. Theo quan niệm của Liên hợp quốc cho rằng: "Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng" [49].

Nguồn lao động là khái niệm để chỉ bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Nguồn lao động được quan niệm là đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế và nó phản ánh khả năng cung ứng lao động của xã hội. Ở Việt Nam, quy định độ tuổi lao động của Luật lao động (1994), độ

31


tuổi lao động đối với nam từ 15 đến 60 và nữ từ 15 đến 55 tuổi; hiện nay, đang có sự điều chỉnh theo hướng kéo dài và tùy theo tính chất ngành nghề cho phù hợp nhu cầu thực tế của cá nhân, của xã hội. Sự so sánh, phân biệt giữa nguồn nhân lực với nguồn lao động là ở khả năng lao động. Nguồn nhân lực của một ngành thì bao giờ cũng gắn liền với khả năng lao động, hoạt động nghề nghiệp, tay nghề, kinh nghiệm... còn nguồn lao động chưa tính đến nhiều tiêu chí, yêu cầu cụ thể.

Ở Việt Nam, sử dụng thuật ngữ về nguồn lực con người khá phổ biến vào những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, dựa trên quan niệm mới về vai trò, vị trí của con người trong sự phát triển. Đây là chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, đưa ra những tiêu chí và đặc trưng của nguồn nhân lực là rất phong phú, mỗi ngành khoa học có quan niệm không giống nhau về tính chất, đặc điểm, vai trò, nhu cầu phát triển nguồn nhân lực ở mỗi giai đoạn lịch sử, cụ thể. Thực tế đã có quan niệm bàn cả về nguồn nhân lực gắn với dân số và chất lượng con người: "Nguồn lực con người là dân số và chất lượng con người, bao gồm thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất đạo đức của người lao động... " [24]. Nguồn nhân lực là những con người phải có đủ phẩm chất, kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo trong sản xuất... Nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của mỗi cá nhân, của đất nước, là sản phẩm của nền giáo dục, đào tạo của một quốc gia trong một giai đoạn lịch sử và được thể hiện ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể.

Nguồn nhân lực của một quốc gia có vai trò quan trọng đặc biệt so với các nguồn lực khác trong quá trình thúc đẩy xã hội phát triển, được xác định là nguồn "tài nguyên đặc biệt" và có thể đánh giá qua tiêu chí chất lượng, số lượng, cơ cấu dân cư còn trong độ tuổi lao động. Nguồn nhân lực có thể hiểu thực chất là toàn bộ phẩm chất trình độ chuyên môn mà con người tích lũy được, thể hiện thông qua hiệu quả lao động của nhóm dân cư trong một quốc gia ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Kiến thức mà con người tích lũy

32


được thể hiện trong quá trình lao động sản xuất là mấu chốt, vì chính kiến thức đó, giúp họ tạo ra của cải, tài sản cho cuộc sống hiện tại và tương lai của chính mình.

Từ những sự phân tích trên, có thể khái quát: Nguồn nhân lực là một khái niệm dùng để chỉ tổng hợp các yếu tố hiện hữu và khả năng tiềm ẩn của người lao động bao gồm số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động có thể được huy động để tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như tương lai.

Nguồn nhân lực cũng có thể được xem xét ở nhiều cấp độ, như là một trong những nguồn lực ở dạng dự trữ, tiềm năng, cả hiện hữu gắn với cá nhân, tập thể, một ngành nghề, cộng đồng, hay quốc gia. Sự phát triển của một quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử, cụ thể sẽ cần có tổng hòa những nguồn lực khác nhau như tài nguyên, vốn, khoa học - công nghệ, nhưng nguồn nhân lực hay nguồn lực con người bao giờ cũng giữ vai trò là nguồn lực quan trọng nhất.

Nguồn nhân lực cung cấp sức lao động cho xã hội, đó là những con người và những nhóm dân cư phát triển bình thường về trí lực, thể lực, có khả năng lao động và trong độ tuổi lao động mà không bị khiếm khuyết hoặc bị dị tật. Nguồn nhân lực thể hiện khả năng huy động sức lao động của xã hội, bảo đảm thúc đẩy sự phát triển xã hội; nếu một quốc gia có nguồn nhân lực lao động chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu dân cư thì được gọi là quốc gia có dân số vàng, ngược lại sẽ đe dọa sự phát triển của quốc gia đó. Cho nên các quốc gia đều quan tâm xây dựng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, bởi nó được xác định là vấn đề chiến lược và là quốc sách của mọi quốc gia. Đặc biệt, sự phát triển không ngừng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực trong tổng số lao động xã hội bảo đảm cho chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất công nghiệp là tất yếu khách quan. V.I.Lênin đã khẳng định vị thế của nguồn nhân lực lao động đó là: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" [45].

33


2.1.1.2. Về nguồn nhân lực ngành Đường sắt Việt Nam

* Ngành Đường sắt Việt Nam

Ngành Đường sắt Việt Nam là một ngành công nghiệp lâu đời, với hệ thống công nghiệp để sản xuất, quản lý, kinh doanh, kết cấu hạ tầng và dịch vụ cho các quá trình đóng mới, sửa chữa, dịch vụ vận tải đường sắt.

Ngành Đường sắt là một trong những ngành vận tải quan trọng trong sự phát triển của đất nước, có bề dày lịch sử gần 1,5 thế kỷ. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời gắn liền với sự xâm chiếm, đô hộ và bóc lột của thực dân Pháp, đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau luôn gắn liền với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, nhất là đứng trước thách thức của cơ chế thị trường, ngành đường sắt đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và đang đặt ra những đòi hỏi mới về nguồn nhân lực của ngành để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ngành có nhiều chức năng nhưng trọng tâm là sản xuất, kinh doanh, là một loại hình doanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, do Nhà nước làm chủ sở hữu, có tư cách pháp nhân, có điều lệ tổ chức, hoạt động riêng, có con dấu riêng, được mở tài khoản tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ tại Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của ngành Đường sắt Việt Nam, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, các chương trình, dự án, đề án quốc gia về phát triển giao thông vận tải đường sắt; quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, nhân viên của ngành; tổ chức hoạt động vận tải đường sắt. Tổ chức ứng dụng, nghiên cứu khoa học, công nghệ; bảo vệ môi trường; tổ chức hợp tác quốc tế; tổ chức thanh tra, kiểm tra giao thông đường sắt...

Về xu hướng phát triển những năm tới, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam cần huy động mọi nguồn lực, nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có,

34


các chủ trương, đường lối, cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước; các nguồn vốn ưu đãi, khoa học công nghệ tiên tiến, các tiềm năng mang lại từ chính sách xã hội hóa hoạt động đường sắt và mở rộng hợp tác quốc tế với những nước có ngành đường sắt phát triển, đặc biệt với Hàn Quốc... Ngành đang tập trung cho quá trình cơ cấu lại sản xuất, triển khai phương châm kinh doanh phục vụ khách hàng: "An toàn - Thuận tiện - Thân thiện - Đúng giờ - Hiệu quả"; theo tiêu chí bốn xin và bốn luôn "Bốn xin: xin chào, xin cảm ơn, xin lỗi và xin phép", "Bốn luôn: luôn mỉm cười, luôn nhẹ nhàng, luôn thấu hiểu và luôn giúp đỡ", nhằm xây dựng hình ảnh và tạo ấn tượng tốt đẹp về ngành Đường sắt Việt Nam trong nhân dân và hành khách đi tàu…Xu hướng mà ngành Đường sắt Việt Nam đang đặt ra để phát triển, hiện đại hóa, hội nhập cùng với khu vực và thế giới cần phải huy động nhiều nguồn lực; song nguồn lực có ý nghĩa quyết định trực tiếp là phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao.

* Quan niệm nguồn nhân lực ngành Đường sắt Việt Nam

Nguồn nhân lực ngành Đường sắt được hình thành, phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác nhau và là chủ thể quan trọng nhất trong sản xuất, kinh doanh của ngành. Nguồn nhân lực ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay, bao gồm cả lực lượng đang lao động và cả lực lượng dự trữ, tiềm năng, được đào tạo, có trình độ học vấn, chuyên môn lành nghề, có kinh nghiệm; có năng lực tiếp nhận, làm chủ, vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng, thành tựu khoa học và công nghệ vào trong quá trình đóng mới, sửa chữa các loại toa tàu và dịch vụ kinh doanh vận tải để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Nguồn nhân lực ngành đường sắt là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, thể hiện ở số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động được huy động, khai thác, sử dụng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, đem lại sự phát triển của ngành góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước trong hiện tại cũng như tương lai. Nguồn nhân lực ngành Đường sắt

35


Việt Nam là chỉ những người tham gia trực tiếp vào các lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh của ngành đường sắt. Nguồn nhân lực ngành đường sắt là một trong những nguồn lực có ý nghĩa quyết định hiệu quả kinh doanh, sự phát triển của ngành.

Như vậy, nguồn nhân lực ngành đường sắt được hiểu là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, thể hiện tiềm năng, khả năng thực tế đảm bảo yêu cầu, tiêu chí về số lượng, chất lượng và cơ cấu có thể huy động đưa vào khai thác, sử dụng trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ vận chuyển của ngành đường sắt.

Nghiên cứu nguồn nhân lực ngành đường sắt cũng tiếp cận theo ba yếu tố cấu thành là số lượng, chất lượng, cơ cấu, đó là một chỉnh thể và được thể hiện nhất quán trong luận án; trong đó, "nguồn nhân lực" nói lên khả năng và mức độ sẵn sàng của nhân lực quốc gia có thể huy động theo nhu cầu phát triển của ngành. Khái niệm "nhân lực ngành đường sắt" là hẹp hơn "nguồn nhân lực ngành đường sắt", vì nó dùng để chỉ những người đang trực tiếp hoạt động trong ngành đường sắt. Tuy nhiên, khái niệm nguồn nhân lực ngành đường sắt còn bao hàm cả nguồn lực hiện thực và cả ở tiềm năng, thông qua cơ chế, chính sách để sử dụng, khai thác. Vì vậy, cần tiếp cận nguồn nhân lực ngành Đường sắt trong mối quan hệ biện chứng với quá trình phát triển nguồn nhân lực và những cơ chế, chính sách để sử dụng, khai thác hiệu qủa nguồn nhân lực này của ngành trong hiện tại, tương lai.

Vai trò của nguồn nhân lực ngành đường sắt là cung cấp sức lao động cho ngành, đó là những con người đang ở tuổi lao động trí lực, thể lực, thông qua tuyển chọn và được đào tạo. Là một bộ phận của nguồn lực xã hội, thể hiện khả năng lao động của xã hội, bảo đảm thúc đẩy sự phát triển của ngành trong hiện tại cũng như tương lai.

Nguồn nhân lực ngành Đường sắt gắn liền với chiến lược phát triển ngành vận tải quốc gia. Sự hình thành và phát triển nguồn nhân lực ngành Đường sắt Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ chế chính sách, yêu

36


cầu phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển ngành vận tải quốc gia. Nguồn nhân lực ngành Đường sắt vừa là sản phẩm, vừa là bộ phận quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tri thức và mở rộng hội nhập quốc tế, thì ngành Đường sắt là ngành gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nguyên nhân phải phụ thuộc vào nhiều nguồn lực, cơ chế để phát huy vai trò của các nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người, nên sức cạnh tranh vận tải đường sắt không cao so với một số ngành vận tải khác.

Nhân lực của ngành đường sắt là lao động công nghiệp đa dạng ngành nghề và xã hội hóa cao. Lao động của ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay, được biên chế ở nhiều bộ phận: Bộ phận ở cơ quan Tổng công ty có Ban Lãnh đạo Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam; Văn phòng Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam và các Ban tham mưu chuyên môn, nghiệp vụ; Công ty quản lý đường sắt; Thông tin tín hiệu đường sắt; Vận tải hàng hóa đường sắt; công ty in đường sắt; công ty Xe lửa; công ty con; công ty liên kết; với tổng quân số cán bộ, công nhân, viên chức của ngành ở năm 2018 là 31.945.000 người. Tuổi trung bình của người lao động trong toàn ngành là 70% ở độ tuổi 40 đến 45; so với một ngành khác trẻ hóa đội ngũ hơn nhiều và đây là điều bất lợi cho ngành đường sắt hiện nay [Phụ lục 9.4].

Nhân lực lao động của ngành Đường sắt Việt Nam thường ở phân tán, trình độ học vấn và có thu nhập không cao. Nhân lực lao động của ngành Đường sắt Việt Nam có số lượng đông so với một số ngành khác, nhưng ở phân tán khắp các miền của đất nước, môi trường làm việc chịu sự ảnh hưởng rất lớn của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nguồn nhân lực ngành Đường sắt Việt Nam có cơ cấu, trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật chưa cao và bố trí không đều ở các bộ phận...

Lao động ngành Đường sắt Việt Nam có năng suất lao động và thu nhập chưa cao. Bình quân thu nhập của người lao động năm 2018 là từ 8 triệu đến 8,4 triệu đồng trên tháng. Điều này do tình hình vận tải của ngành đường sắt

Xem tất cả 184 trang.

Ngày đăng: 29/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí