đất đến việc làm của nông dân, Nhà nước xây dựng các văn bản pháp quy để bồi thường, hỗ trợ người dân mất đất sản xuất nông nghiệp theo hướng bảo đảm ổn định việc làm và thu nhập hợp pháp cho bản thân người lao động và gia đình của họ. Đồng thời, Nhà nước xây dựng các điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết để phát triển thị trường sức lao động, mở rộng và phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm, hệ thống thông tin việc làm để người nông dân nâng cao cơ hội tiếp cận và tìm kiếm việc làm mới.
- Phát triển sản xuất - kinh doanh, nhất là lượng ngành nghề sử dụng nhiều lao động để thu hút lao động nông nghiệp sau khi thu hồi đất. Sau khi thu hồi đất, Nhà nước và các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động nhằm phát triển sản xuất kinh doanh từ đó tạo ra nhu cầu về việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
- Xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp để người lao động có cơ hội tìm được việc làm. Vì người nông dân mất việc làm do không có trình độ, chuyên môn nghề nghiệp, do vậy Nhà nước xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp cho người nông dân theo hướng phù hợp với khả năng của nông dân, phù hợp với nhu cầu của thị trường nhằm giúp người nông dân sau khi được đào tạo nghề tìm kiếm được việc làm.
- Phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với các doanh nghiệp.
- Chủ đầu tư có sử dụng đất thu hồi trong việc đào tạo và bố trí việc làm cho nông dân bị thu hồi đất vào làm việc trong các doanh nghiệp này. Xây dựng cơ chế ràng buộc và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi của người nông dân trong việc giải quyết việc làm cho người lao trang bị thu hồi đất.
- Tuyên truyền, vận động, giúp đỡ người nông dân khi bị mất đất chủ động tìm kiếm và lựa chọn nghề nghiệp và việc làm mới phù hợp với bản thân thông qua các chính sách trợ giúp của Nhà nước và các doanh nghiệp, đồng thời bản thân người nông dân cũng có cơ hội tìm việc làm và duy trì các công việc ở các dự án sử dụng đất nông nghiệp thu hồi hoặc tìm được các công việc khác do sự phát triển kinh tế - xã hội tạo ra. Những nội dung trên được thể hiện cụ thể trong xác định trách nhiệm
của từng chủ thể có liên quan đến thu hồi đất trong giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất, bao gồm các chủ thể: người sử dụng lao động, người lao động và vai trò của nhà nước.
+ Về phía người sử dụng lao động đó là toàn bộ các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, với vai trò là tạo ra chỗ làm mới và ổn định việc làm cho nông dân đã được vào làm việc trong doanh nghiệp. Để tạo được chỗ làm việc, người sử dụng lao động cần phải có những cơ sở: Vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm tổ chức quản lý cũng như phải tìm được thị trường (cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra). Trong đó, để tạo được việc làm thì người sử dụng lao động còn phải đến thị trường lao động để thuê lao động. Chỉ khi nào người sử dụng lao động tìm được sức lao động phù hợp với nhu cầu của mình cả về chất lượng và số lượng thì khi đó việc làm mới được hình thành.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Khoảng Trống Về Giải Quyết Việc Làm Và Bảo Đảm Đời Sống Cho Người Lao Động Sau Khi Bị Thu Hồi Đất Cần Được Tiếp Tục Nghiên Cứu
- Tác Động Tiêu Cực Từ Các Khu Công Nghiệp, Khu Đô Thị Đối Với Người Lao Động Bị Thu Hồi Đất
- Giải Quyết Việc Làm Và Bảo Đảm Đời Sống Cho Người Lao Động Bị Thu Hồi Đất Trong Quá Trình Cnh, Đth
- Tiêu Chí Đánh Giá Kết Quả Giải Quyết Việc Làm Và Bảo Đảm Đời Sống Cho Người Lao Động Bị Thu Hồi Đất Trong Quá Trình Cnh, Hđh
- Kinh Nghiệm Của Một Số Địa Phương Trong Giải Quyết Việc Làm Và Bảo Đảm Đời Sống Cho Người Lao Động Sau Khi Bị Thu Hồi Đất Trong Quá Trình Cnh, Đth
- Những Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Đối Với Tỉnh Nghệ An
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Do quá trình thu hồi đất, người nông dân không được sống ở những nơi đã quen thuộc của họ, với những nghề nghiệp có truyền thống lâu đời. Do đó, doanh nghiệp cũng có phần trách nhiệm trong việc sử dụng lao động tại địa phương để GQVL cho người dân có đất bị thu hồi và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động này.
Các doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận, do đó họ hoàn toàn cần tuyển những lao động phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, khi người lao động bị thu hồi đất, nhất là nông dân, việc đòi hỏi họ ngay lập tức phải đáp ứng được nhu cầu kỹ thuật trong doanh nghiệp cũng là vấn đề khó khăn. Vì thế, việc có các quy định trách nhiệm này như thế nào cũng là vấn đề cần phải được thực hiện và đối với người sử dụng lao động cần khuyến khích các yêu cầu: Hỗ trợ đào tạo nghề và chuyển đổi nghề nghiệp; hoạt động trong các ngành, nghề thu hút được nhiều lao động; thu hút và GQVL cho lao động tại chỗ...
+ Về phía người lao động: người lao động muốn có việc làm phải có sức khoẻ, có trình độ cũng như những kỹ năng cần thiết đáp ứng được yêu cầu của công việc. Chính vì vậy, người lao động muốn có việc làm thì họ phải không ngừng hoàn thiện bản thân trên các mặt như: có sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu của công việc, hoàn thiện về kiến thức về kỹ năng chuyên môn. Điều này cho thấy để có được việc
làm và duy trì việc làm thì người lao động phải chủ động nắm bắt những có hội về việc làm. Để GQVL sau thu hồi đất, người lao động phải đứng trước những thách thức sau:
Thứ nhất, yêu cầu nâng cao trình độ và đào tạo nghề cho người lao động Việc mở rộng các đô thị, xây dựng các khu công nghiệp là cơ hội rất tốt cho việc thu hút và GQVL cho người lao động. Cũng theo tính toán của các chuyên gia của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thì 1 ha đất khi chuyển sang làm công nghiệp, dịch vụ có thể tạo việc làm cho từ 50 - 100 lao động. Tuy nhiên, lao động công nghiệp và dịch vụ là lao động đòi hỏi phải có tay nghề, có chuyên môn và nghiệp vụ, nói cách khác là phải được đào tạo bài bản. Điều đáng nói là lao động nông thôn của nước ta qua đào tạo còn thấp. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố năm 2013, cả nước có 55% số lao động nông thôn qua đào tạo ; 40 % lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật; 8 % có trình độ trung cấp kỹ thuật, 4 % có trình độ cao đẳng, 3% có trình độ đại học và tương đương.
Bên cạnh đó, nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và thương mại - dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu GQVL cho người lao động, mặt khác do chính bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông dân, có nhiều hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn nghề nghiệp, chưa thích ứng được với công việc mới, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Không ít người sau một thời gian được nhận vào làm việc tại các nhà máy, các khu công nghiệp do không đáp ứng được yêu cầu công việc nên buộc phải thôi việc và lại rơi vào tình trạng không có việc làm. Điều này gây khó khăn cho cuộc sống của chính bản thân người lao động, đồng thời cũng gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thu hút lao động và ổn định sản xuất. Vì vậy, đó cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho các khu công nghiệp thu hút được rất ít lao động nông thôn và đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đào tạo nghề và nâng cao trình độ cho người lao động.
Hai là, phải chủ động kết hợp với chính quyền địa phương trong việc chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của người lao động.
Do quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chính vì vậy nó cũng làm cho tỷ trọng về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cũng biến đổi theo hướng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng còn lao động trong ngành nông nghiệp giảm. Do vậy, người lao động phải chủ động quan sát nhu cầu của thị trường lao động về những nghề nghiệp mà thị trường đang có nhu cầu và tham gia vào quá trình đào nghề nghề nghiệp đó.
+ Về phía Nhà nước: Nhà nước có vai trò quan trọng trong tạo việc làm. Vai trò của nhà nước được thể hiện trong việc tạo môi trường thuận lợi cho việc làm hình thành và phát triển, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động cũng như người sử dụng lao động phát huy được khả năng của họ, đưa ra những chính sách liên quan tới người lao động, người sử dụng lao động.
Trong đó đối với người lao động, nhà nước tạo điều kiện cho họ được tiếp cận với hệ thống giáo dục - đào tạo nghề, trung tâm dịch vụ việc làm ... và đặc biệt là tạo cơ sở pháp lý để phát triển thị trường lao động. Còn đối với người sử dụng lao động, Nhà nước có sự hỗ trợ về mặt pháp lý để họ được tự do, bình đẳng trong kinh doanh, hỗ trợ về vốn, thông tin đào tạo nâng cao kiến thức quản lý của các doanh nghiệp... GQVL cho nông dân sau thu hồi đất vừa là yêu cầu, vừa là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội từ đó sẽ tạo ra được các hiệu quả lớn về mặt kinh tế - chính trị
- xã hội. Để bảo đảm lợi ích chính đáng cho người nông dân sau thu hồi đất thì Nhà nước cần phải hướng vào thực hiện các chính sách và các biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nhà nước thiết lập các chương trình, kế hoạch chuyển đổi nghề và GQVL có sự tham gia của các hộ nông dân vùng bị thu hồi đất: xác định tổng số đất bị thu hồi, xác định tổng số hộ và lao động các độ tuổi bị ảnh hưởng, xác định nhu cầu lao động phải GQVL (số lao động phải đào tạo và đào tạo lại ngành nghề cần đào tạo). Tiếp đó, Nhà nước tiến hành xác định mức hỗ trợ đào tạo nghề và tìm việc
làm mới cho người dân ở mức tối đa nhất; công bố tiêu chuẩn và phối hợp lập kế hoạch thu hút lao động của các dự án đầu tư ở địa phương (cam kết giữa chính quyền địa phương với các chủ dự án đầu tư) với phương châm ưu tiên cho những nông dân bị mất đất và đứng ra GQVL cho họ nếu đủ điều kiện….
Thứ hai, Nhà nước tổ chức thực hiện kế hoạch GQVL cho người lao động khi thu hồi đất: tổ chức đào tạo nghề, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ GQVL cho nông dân khi thu hồi đất, giám sát thực hiện cam kết giữa chính quyền địa phương với các chủ dự án đầu tư về thu hút lao động của các dự án đầu tư ở địa phương, tạo cơ sở pháp lý để người sử dụng lao động và người lao động có thể hoạt động hiệu quả hơn...Nhà nước hỗ trợ về vật chất khi người nông dân bị thu hồi đất, thành lập các quỹ GQVL cho người dân nhằm: nâng cao trình độ, đào tạo nhân lực. Ngoài ra, Nhà nước còn tạo mặt bằng thuận lợi để hỗ trợ cho các hộ tham gia mở các dịch vụ cho khu công nghiệp, khu đô thị mới; đồng thời Nhà nước khai thác và phát triển hệ thống thị trường lao động trong và ngoài địa phương kể cả xuất khẩu lao động ra nước ngoài để góp phần tăng cầu lao động.
Ngoài ra, các tổ chức chính trị xã hội cũng có vai trò quan trọng trong việc GQVL cho nông dân sau thu hồi đất: tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về đất đai đến với nông dân, làm cho nông dân nhận thức đúng về việc thu hồi đất nông nghiệp trong phục vụ lợi ích phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, các tổ chức như Hội phụ nữ, Hội nông dân...cũng góp phần tích cực trong việc hướng dẫn chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới, tăng thu nhập cho nông dân.
* Nội dung bảo đảm đời sống cho người lao động sau khi bị thu hồi đất trong quá trình CNH, ĐTH
Đối với người dân có đất bị thu hồi, ngoài việc giải quyết việc làm, vấn đề đặt ra còn phải giải quyết để đảm bảo đời sống đó là:
- Giá đất đền bù cho người dân
Khi người dân có đất bị thu hồi, vấn đề đặt ra là cần phải đền bù cho người dân. Ở đây, vấn đề giá cả đền bù là vấn đề rất phức tạp. Thực tiễn cho thấy, nếu giá
cả đền bù hợp lý thì của Nhà nước, các doanh nghiệp và người dân đều có lợi, quá trình thu hồi đất diễn ra nhanh chóng và ngược lại.
Thực tiễn nước ta chỉ rõ, mặc dù Nhà nước đã có quy định về giá đền bù đối với từng loại đất khi bị thu hồi (Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ), song do nhận thức và trình độ của đội ngũ cán bộ ở các địa phương khác nhau, nên khi tiến hành việc định giá đất để đền bù cho người dân có đất bị thu hồi cũng rất khác nhau giữa các địa phương. Điều làm cho người dân phản ứng và gây khiếu kiện kéo dài là thu hồi đất ở, đất đô thị, nhưng khi tính giá đền bù lại tính là đất nông nghiệp, hoặc khi lập dự án đền bù người dân thấy họ sẽ được nhận một khoản tiền khá lớn, song số tiền được nhận trong thực tế không phải như vậy. Trong nhiều trường hợp, việc đền bù đất bị thu hồi với giá quá thấp cũng đang là vấn đề “nóng” ở nhiều địa phương. Gần đây, một số phương tiện thông tin đại chúng cũng đã đề cập đến vấn đề này.
Hà Nội là một trong số các địa phương đã có nhiều cố gắng thực hiện tốt chính sách đền bù giải phóng mặt bằng. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các ban, ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh chính sách về giá đất nông nghiệp, giá đất ở để xác định bồi thường thiệt hại, các chính sách hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ khi ngừng sản xuất – kinh doanh, hỗ trợ đặc biệt khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, giá bán nhà tái định cư. Quyết định số 18/2008/QĐ-UB ngày 9/10/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn đã giúp Thành phố sớm chủ động tháo gỡ một số vướng mắc. Tuy nhiên, các văn bản về chế độ, chính sách mới được ban hành có liên quan đến vấn đề thu hồi đất của Thành phố theo tinh thần của Luật đất đai, Luật xây dựng mới và các nghị định của Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các Bộ, ban, ngành mới được ban hành đầu năm 2009. Một số chế độ, chính sách mới tạo nên sự chênh lệch trong việc áp dụng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đang đặt ra yêu cầu phải được xử lý cho phù hợp nhằm hạn chế sự bất cập trong việc thực thi các chính sách trong cùng một dự án hoặc trong cùng một địa bàn, thời điểm tiến hành gần nhau.
Bồi thường thiệt hại về đất, nguyên tắc bồi thường về đất thể hiện ở một số điều khoản trong quyết định chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, do vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn, thửa đất có ngõ giáp mặt tiền mà diện tích ngõ cùng diện tích mặt tiền đồng sở hữu được quy định đền bù theo mức giá của vị trí 1 đến vị trí 4. Như vậy, vô hình trung trong một thửa đất một chủ sử dụng lại có 2 mức giá đền bù quá chênh lệch nhau, gây thiệt thòi cho người dân; hoặc các hộ dân cùng chung ngõ liền kề nhau nhưng giá đền bù từ vị trí 4 đến vị trí 2 khác nhau, cũng khiến người dân suy bì. Một số thửa đất có hình dạng đặc biệt như chữ T, chữ N, chữ Z ... không được quy định trong quyết định nên người làm công tác giải phóng mặt bằng rất khó xử lý.
Giá đền bù đất ở, Quyết định số 18/2008/QĐ-UB ngày 9/10/2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành giá đất để làm khung cho việc chuyển quyền sử dụng đất, đồng thời áp dụng mức giá giải phóng mặt bằng chỉ đền bù cao nhất 80 triệu đồng/m2 nhưng Chính phủ quy định khung giá đất đền bù cao nhất là 64 triệu đồng/m2. Hơn nữa, trong cùng một phường, các vị trí đất có giá trị ngang nhau, nhưng khi thực hiện giải phóng mặt bằng lại có giá chênh lệch quá lớn. Đơn cử như quận Hai Bà Trưng, trong dự án xây dựng cầu Vĩnh Tuy, những hộ cạnh nhau nhưng ở vị trí khác nhau nên có mức đền bù khác nhau. Điều 56 Luật đất đai năm 2003 quy định giá bồi thường sát với giá thị trường tại thời điểm đền bù. Tuy vậy, mỗi năm Thành phố chỉ ban hành giá đất 1 lần, hơn nữa khái niệm “sát giá thị trường” khiến người dân luôn yêu cầu được thỏa thuận ngang bằng giá mua bán tại thời điểm kê khai đền bù, nên đã gây khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng.
Bồi thường về tài sản, theo Quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, nếu áp dụng giá đối với các nhà cao tầng trên 10 tầng là phù hợp, song khi làm thước đo cho giải phóng mặt bằng thì lại không phù hợp vì nhà dân chỉ phổ biến từ 2 -5 tầng; suất đầu tư cho tỷ lệ các tầng không chênh lệch mấy, nhưng khi làm cơ sở để tính giá đền bù giải phóng mặt bằng nhà 5 tầng và 3 tầng đã chênh nhau khá nhiều; hoặc khi đền bù nhà không tính đến giá mặt sàn xây dựng cũng gây thiệt thòi cho những hộ dân xây nhà cao cấp.
- Tổ chức tái định cư cho người dân
Khi người dân phải di dời khỏi nơi ở cũ, việc tổ chức tái định cư tất yếu phải được đặt ra. Trong thực tiễn, việc tái định cư đối với các hộ dân bị thu hồi đất được tiến hành khá đa dạng, tuy nhiên phổ biến nhất có hai cách :
- Một là , xây dựng các khu chung cư cao tầng rồi đưa dân đến sinh sống, làm ăn.
- Hai là, bố trí một khu đất mới, sau đó xây nhà dân đưa đến ở, hoặc phân lô, hỗ trợ kinh phí để người dân tự xây.
Trong thực tế, việc triển khai tái định cư cho các hộ dân bị thu hồi đất ở còn có rất nhiều vấn đề, gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Nhiều khu tái định cư thiết kế không hợp lý, chất lượng xây dựng quá kém, kết cấu hạ tầng không đồng bộ. Khu dân cư mới thì chuẩn bị không tốt, khi chuyển đến khu ở mới, người dân không có điều kiện để có thể ổn định được cuộc sống. Khu chung cư đang xây dựng theo quy trình ngược: xây nhà trước, xây hạ tầng sau.
Ở Hà Nội, trong giai đoạn 2005 – 2010, bằng nhiều nguồn vốn huy động, trên địa bàn thành phố đã triển khai 171 dự án xây dựng nhà ở tái định cư, với số lượng
194.500 căn hộ, lô đất. Trong đó, Thành phố trực tiếp đầu tư 49 dự án với quy mô
102.200 căn hộ, lô đất. Thành phố đã hình thành một số khu tái định cư tập trung như khu di dân đền Lừ (25 ha), khu di dân Cống Vị (7,2 ha), khu di dân Dịch Vọng (5,3 ha), khu tái định cư Nam Trung Yên (56 ha), khu đô thị Trung Hòa – Nhân Chính (14,2 ha), v.v…
Tính đến cuối năm 2010, Thành phố đã bố trí tái định cư cho 9535 hộ dân và chuẩn bị được trên 1.000 căn hộ cho các yêu cầu cấp bách của dự án cầu Vĩnh Tuy và nút Ngã Tư Sở. Nhìn chung, tình trạng khó khăn về quỹ nhà, đất tái định cư từ năm 2000 đến nay đã từng bước được tháo gỡ. Khả năng đáp ứng nhu cầu về tái định cư trong các năm 2005- 2010 chỉ đảm bảo được khoảng 50-60%. Đến năm 2011 đã tăng lên khoảng 70%. Năm 2010, với nguồn quỹ nhà, đất tái định cư được hoàn thành theo tiến độ dự kiến, Thành phố sẽ có khả năng giải quyết chủ động hơn yêu cầu về nhà đất tái định cư đối với các công trình trọng điểm.
Tuy nhiên, việc triển khai các khu tái định cư còn lúng túng và chậm về thủ tục