phải có khả năng vận hành các quy trình nghiệp vụ một cách chủ động, xử lý kịp thời mọi tình huống, tạo ra hiệu quả trong kinh doanh, hỗ trợ Ban lãnh trong việc quản lý. Do đó nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của Ban lãnh đạo NHTMCPCTVN và lãnh đạo phòng KDNT là phải củng cố nguồn nhân lực hiện có, đào tạo nhân viên theo các tiêu chuẩn cơ bản thiết yếu sau: phải am hiểu tường tận, thấu đáo các quy trình nghiệp vụ ngân hàng, trình độ ngoại ngữ phải ở mức cao, am hiểu và có khả năng phân tích kinh tế vĩ mô, trình độ vi tính phải thành thạo trong xử lý văn bản, thao tác thành thạo các nghiệp vụ hạch toán kế toán, thành thạo truyền tin qua mạng, có năng khiếu về toán học và tư duy lôgíc.
Để có thể đạt được những phẩm chất này và khắc phục hiện tượng cán bộ chỉ giỏi về lý luận mà xa rời thực tiễn dẫn đến lúng túng khi va chạm thực tế, giải quyết nảy sinh chậm trễ gây khó khăn cho công việc, làm giảm hiệu quả kinh doanh, Ngân hàng cần có chương trình, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ cho hiện tại và tương lai, cụ thể:
+ Đào tạo bồi dưỡng cán bộ nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học. Đây là hai yêu cầu tối thiểu phải có đối với các cán bộ giao dịch kinh doanh ngại tệ, đặc biệt các cán bộ giao dịch trên thị trường hối đoái quốc tế.
+ Khuyến khích, tạo điều kiện, trợ giúp kinh phí cho cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất là những cán bộ trẻ. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt đưa NHTMCPCTVN tiếp cận và làm chủ các công nghệ ngân hàng hiện đại, bắt kịp xu thế phát triển chung. Tận dụng những đợt đào tạo ở nước ngoài, cử cán bộ trẻ đi đào tạo để nắm bắt được kiến thức mới nhất trên thế giới, tìm cách vận dụng sáng tạo trong điều kiện của NHTMCPCTVN. Có nhiều chứng chỉ quốc tế quan trọng liên quan đến nghiệp vụ KDNT như chứng chỉ Dealer quốc tế ACI, chứng chỉ CFA…Đây thực sự là những chứng chỉ mang tầm quốc tế để khẳng định đẳng cấp của các Trader và Dealer. Tuy nhiên, học tập theo đuổi những chứng chỉ này đòi hỏi thời gian và tiền bạc, do đó rất cần sự hỗ trợ từ phía ban lãnh đạo Ngân hàng.
+ Nên nghiên cứu phương thức thuê chuyên gia giảng dạy vì có thể vừa tiết kiệm kinh phí mà vừa có thể đạt được hiệu quả. Phương thức này tuy tiết kiệm chi
phí nhưng có hạn chế là chỉ có thể mời được một chuyên gia chuyên sâu vào một lĩnh vực, chứ không thể tổ chức được hẳn một khoá đào tạo chuyên nghiệp.
+ Cần hỗ trợ về tài chính cũng như về thời gian, khuyến khích cán bộ tự học. Hiện nay với sự phát triển tiên tiến của khoa học kỹ thuật. Các thông tin và tài liệu có thể tìm kiếm được trên mạng internet. Các tài liệu này nhìn chung là không thể đầy đủ và toàn diện, nhưng nó cung cấp được một lượng thông tin cơ bản giúp người học có thể tiếp cận được với vấn đề. Trên cơ sở đó giúp cho các bước đào tạo và nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo có thể đạt hiệu quả cao hơn.
Bên cạnh yêu cầu về chuyên môn, giao dịch viên KDNT cũng phải có một số phẩm chất đạo đức và tác phong làm việc hiệu quả. Cán bộ phải có tinh thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp không để xảy ra các vụ việc tiêu cực làm thất thoát tài sản của ngân hàng, gây thiệt hại cho khách hàng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Doanh Số Giao Dịch Quyền Chọn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Vn Giai Đoạn 2009 – 2010
- Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ Của Nhtmcpctvn
- Tăng Cường Năng Lực Quản Lý Của Ngân Hàng Nhà Nước
- Phát triển nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - 13
- Phát triển nghiệp vụ quyền chọn ngoại hối trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Cần tổ chức cho cán bộ đi dã ngoại, nghỉ mát vui chơi... để tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện và gắn bó với ngân hàng, quan tâm đến cán bộ và gia đình của cán bộ nhằm xây dựng một tập thể đoàn kết, nhất trí, chung sức đẩy mạnh và phát huy hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Con người là nhân tố cơ bản, nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực. Vì thế, cần tập trung phát tiển và có những chính sách, chiến lược phương hướng đúng đắn để phát huy tối đa nguồn lực này.
3.2.2.4 Marketing nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ
Khi mua một loại dịch vụ, nhiều khách hàng có cảm giác rằng họ có thể gặp phải một rủi ro nào đó. Bởi lẽ, khác với những sản phẩm mang tính vật chất, dịch vụ là một thứ sản phẩm vô hình. Khách hàng thật sự không thể biết trước mình sẽ nhận được những gì từ một dịch vụ cho đến khi họ bỏ tiền ra và thử nghiệm dịch vụ đó. Do vậy, quyết định có nên sử dụng một dịch vụ nào đó hay không, khách hàng cần một điều gì đó hữu hình để họ có thể an tâm hơn. Và điều mà họ quan tâm nhất là giá cả, vì đây là một yếu tố hữu hình, có thể giúp khách hàng so sánh dịch vụ này với dịch vụ khác. Nhưng vấn đề là nếu người cung ứng nào cũng cạnh tranh bằng
giá cả thì cuối cùng chẳng có ai là người được lợi. Do đó, để bán được một dịch vụ, điều quan trọng nhất là xây dựng lòng tin của khách hàng vào lời hứa của người cung ứng dịch vụ đó.
Với mục tiêu sẽ triển khai những sản phẩm mới như quyền chọn, sản phẩm cơ cấu tới khách hàng, một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của Ngân Hàng chính là phải có biện pháp marketing giới thiệu sản phẩm tới khách hàng. Cũng như các mặt hàng dịch vụ khác, tính vô hình của sản phẩm dịch vụ ngân hàng đã dẫn đến việc khách hàng không nhìn thấy, không thể nắm giữ được, đặc biệt là khó khăn trong đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ trước khi mua, trong quá trình mua và sau khi mua. Để giảm bớt sự không chắc chắn khi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng, khách hàng buộc phải tìm kiếm các dấu hiệu chứng tỏ chất lượng sản phẩm dịch vụ như địa điểm giao dịch, mức độ rủi ro thấp chấp nhận được để đánh đổi mức phí sử dụng dịch vụ đó, mức độ trang bị công nghệ, uy tín của ngân hàng,… Thay vì để bản thân khách hàng tự tìm kiếm thông tin và đánh giá chất lượng của sản phẩm quyền chọn, một trong những sản phẩm dịch vụ phức tạp, sau khi triển khai thí điểm thành công giao dịch quyền chọn tại một số chi nhánh thì phòng KDNT cần thực hiện marketing bằng cách “Sản phẩm hoá” nghiệp vụ quyền chọn. Điều này có nghĩa là biến cái vô hình thành cái hữu hình. Cụ thể là phòng KDNT cần soạn ra những tài liệu giới thiệu hướng dẫn sử dụng nghiệp vụ quyền chọn, trong đó có thể đưa ra những thông tin cơ bản, nhưng phương pháp tính toán hay thậm chí những bí quyết để giúp khách hàng sử dụng dịch vụ này một cách hiệu quả. Những tài liệu này có thể in thành các tập sách nhỏ (guide books, manuals), đưa lên các website hay lưu trữ vào một CD, một tập hồ sơ và phát trực tiếp cho khách hàng tại một cuộc hội trợ triễn lãm hay thông qua một buổi thuyết trình chào bán hàng. Thông qua những tài liệu bán hàng này, khách hàng sẽ cảm thấy gần gũi và hiểu rõ nghiệp vụ hơn. Có thể nói nghiệp vụ quyền chọn được xem như một dịch vụ ngân hàng mới được triển khai ở Việt Nam, do đó phổ biến sản phẩm dịch vụ này đến những khách hàng quan trọng và khách hàng truyền thống là bước đi đúng đắn và cần thiết để NHTMCPCTVN marketing rộng rãi sản phẩm ra thị trường tài chính.
Điểm mấu chốt của marketing dịch vụ ngân hàng là ngân hàng cần có cơ hội để trình bày, thể hiện với khách hàng tất cả những giá trị mà ngân hàng có thể đem đến cho họ thông qua dịch vụ của mình bằng cách tổ chức những hội nghị khách hàng, giới thiệu sản phẩm...Thông thường, các ngân hàng thường giả định rằng khách hàng hiểu biết mọi điều mà nhà ngân hàng làm cho họ, nhưng thực tế không như vậy. Thực tế dẫn đến tình trạng cung chưa gặp được cầu. Do vậy, đối với các dịch vụ ngân hàng nói chung và đặc biệt là sản phẩm dịch vụ quyền chọn nói riêng, ngân hàng phải làm cho khách hàng thấu hiểu mọi giá trị cũng như cơ hội mà mình đem đến cho họ, để họ cảm nhận rằng dịch vụ đó thật sự là một giải pháp tuyệt vời.
3.2.2.5 Đẩy mạnh hoạt động dự báo biến động tỷ giá và phân tích thị trường
Nghiệp vụ KDNT tại NHTM có cơ sở hoạt động là sự biến động tỷ giá trên thị trường hối đoái. Để tận dụng cơ hội kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, cũng như quản trị rủi ro hối đoái, khó khăn của các NHTM là phải dự báo được sự biến động tỷ giá.
Việc áp dụng các phương pháp phân tích dự báo biến động tỷ giá trên thị trường hối đoái quốc tế nhằm mục đích đưa ra được các kết luận dự báo có độ chính xác cao. Kết luận dự báo biến động tỷ giá là cơ sở ra quyết định kinh doanh của các cán bộ giao dịch, từ đó tác động trực tiếp tới kết quả của hoạt động KDNT. Vì vậy, các phương pháp phân tích dự báo biến động tỷ giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động KDNT. Đồng thời, thông qua mức độ hoàn thiện các phương pháp phân tích dự báo biến động tỷ giá được áp dụng, các NHTM thể hiện tính chuyên nghiệp của mình trong hoạt động KDNT. Chính vì thế mà phòng KDNT – NHTMCPCTVN cần thành lập nhóm phụ trách phân tích và dự báo biến động tỷ giá chuyên nghiệp bao gồm:
- Cán bộ chuyên trách nghiên cứu Technical: Đây là các cán bộ phải được đào tạo cơ bản và có khả năng tự nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực áp dụng các phương pháp kỹ thuật đồ thị để dự báo biến động tỷ giá trên thị trường hối đoái. Các cán bộ này lại không cần hiểu biết quá sâu về các vấn đề kinh tế học vì phương pháp dự báo kỹ thuật hoàn toàn không dựa vào các mối liên hệ giữa biến động tỷ giá với các biến số kinh tế xã hội.
Các mô hình dự báo kỹ thuật đồ thị rất đa dạng và mỗi mô hình chỉ phát huy hiệu quả trong dự báo biến động tỷ giá trong một thời kỳ nhất định. Nhiệm vụ của các cán bộ nghiên cứu Technical là phải chỉ ra mô hình nào đang phù hợp với điều kiện thị trường, giúp cho các cán bộ giao dịch có thể áp dụng mô hình phù hợp ngay trong kinh doanh, không phải mất thời gian đi nghiên cứu.
- Cán bộ chuyên trách nghiên cứu dự báo cơ bản Fundamental: cán bộ này chuyên trách trong vấn đề phân tích thị trường nói chung. Bộ phận này có trách nhiệm áp dụng các phương pháp dự báo cơ bản để dự báo xu hướng biến động tỷ giá trong dài hạn. Vì vậy cần được đào tạo chuyên nghiệp trong lĩnh vực phân tích thị trường, trang bị và nắm vững các vấn đề vi mô cũng như vĩ mô của nền kinh tế.
Dự báo biến động tỷ giá không chỉ phục vụ riêng cho hoạt động kinh doanh của Phòng KDNT mà mở rộng phục vụ cho các hoạt động hác của NHTMCPCTVN như: đầu tư ngoại tệ, chuyển đổi cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trên thị trường quốc tế, tư vấn khách hàng...
3.2.2.6 Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài.
Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng nước ngoài trên thị trường ngoại hối quốc tế, để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, về hệ thống phân tích quản lý rủi ro đối với các loại hình nghiệp vụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ, nghiệp vụ tương lai tiền tệ nói riêng.
Mặc dù đã ký được hai thoả thuận khung với ngân hàng UFJ Singapore, và Natexis Paris nhưng NHCT cũng cần ký kết thêm các thoả thuận khung thực hiện các giao dịch phái sinh bao gồm quyền chọn và hợp đồng tương lai với các ngân hàng nước ngoài tại một số thị trường lớn nơi các nghiệp vụ phái sinh được sử dụng rộng rãi, như London hay New York. Qua đó cho phép NHTMCPCTVN thực hiện mua bán các công cụ phái sinh với nhiều ngân hàng cùng một lúc. Về nguyên tắc để có thể thực hiện được các giao dịch phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai, thì các ngân hàng cần phải ký kết một thoả thuận khung với nhau để đảm bảo các giao dịch được thực hiện theo đúng thông lệ và làm cơ sở để giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra.
3.2.2.7 Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý và hiệu quả.
Chính sách khách hàng có một vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một NHTM. Giải pháp về một chính sách khách hàng hợp lý sẽ là yếu tố quyết định vị trí của ngân hàng đó trong cuộc cạnh tranh gay gắt giành giật thị phần về thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh trên thị trường ngoại hối của các NHTM.
Giữ vững mối quan hệ với khách hàng
Hoạt động ngân hàng là hoạt động giữa người với người. Do đó nếu chỉ tập trung vào giao dịch thì sẽ rất dễ mất khách hàng. Chi nhánh luôn phải đảm bảo giữ vững mối quan hệ với khách hàng vì có quan hệ thì mới có giao dịch. Nếu chi nhánh có quan hệ thân tín thì đây chính là tuyến phòng thủ rất tốt để chống lại sự cạch tranh. Vì thế giao dịch về chất chính là trao đổi nhưng mạch máu của các giao dịch lại chính là các mối quan hệ.
Chủ động tìm kiếm khách hàng:
Đây là một hoạt động không thể thiếu trong chiến lược khách hàng nhằm mở rộng hoạt động và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Trong tình hình hiện nay, khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu đến chi nhánh còn hạn chế. Do đó, chi nhánh cần chủ động tìm kiếm khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng mạng lưới giao dịch có chính sách ưu đãi, sản phẩm dịch vụ tiện ích để thu hút nhóm khách hàng này, vì đây vừa là nguồn thu vừa là nguồn bán ngoại tệ quan trọng của ngân hàng.
Tăng cường hoạt động Marketing Ngân hàng.
Hiện nay, môi trường Marketing Ngân hàng đang thay đổi: nhu cầu của khách hàng ngày càng phức tạp hơn, khách hàng am hiểu hơn về dịch vụ, khách hàng ngày càng giàu có và quan tâm hơn tới dịch vụ ngân hàng. Các nghiệp vụ KDNT phái sinh là hoạt động còn mới mẻ nên để có được uy tín với khách hàng ngân hàng phải mất nhiều thời gian, công sức, đặc biệt là những nghiệp vụ mới, phải thông qua nhiều cách để khách hàng tiếp cận tốt hơn như: quảng cáo, tiến hành giới thiệu
khách hàng hoặc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để tuyên truyền, giải thích, tư vấn cho khách hàng về các loại h nh giao dịch. Đối với những quy chế về ngoại hối, đặc điểm của nó là thường xuyên được bổ xung sửa đổi. Vì vậy ngân hàng cần có biện pháp thông tin kịp thời để khách hàng nắm vững và thực hiện đúng.
Có chính sách giá cả hấp dẫn đối với khách hàng trên mọi lĩnh vực đặc biệt là các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh
Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, chính sách giá cả khách hàng được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà chi nhánh đặt ra. Giá cả trong mua bán ngoại tệ là tỷ giá, vì vậy tỷ giá không nên cứng nhắc, gò bó mà cần linh hoạt và phù hợp với cung cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời đảm bảo kinh doanh có lãi cho ngân hàng. Mức giá mà chi nhánh đưa ra phải phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng loại hình dịch vụ, từng thời điểm cụ thể để vừa duy trì được quan hệ với khách hàng thường xuyên vừa thu hút được khách hàng mới. Để thực hiện được điều này chi nhánh phải tiến hành phân loại khách hàng, có biện pháp ưu tiên đối với khách hàng lớn như được hưởng lãi suất ưu đãi, giảm tỷ lệ ký quỹ, ưu tiên cung cấp ngoại tệ khi thị trường khan hiếm.
3.3 KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
Điều chỉnh biên độ thường xuyên:
Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp điều chỉnh và công bố tỷ giá linh hoạt hơn, mở rộng biên độ cao hơn mức 1% hiện nay. Đồng thời, NHNN cần tăng cường can thiệp vào thị trường ngoại hối với tư cách là người mua bán cuối cùng, ban hành văn bản quy chế theo thông lệ quốc tế để tạo điều kiện cho việc mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh, tạo điều kiện để hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam.
Khẩn trương hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp lý:
NHNN cần chỉnh sửa, bổ sung những văn bản hiện đang là vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện của các NHTM, cần rà soát lại hệ thống các bảng biểu báo cáo, những gì trùng lặp, chồng chéo cần phải bỏ, đồng thời NHNN cần sớm thông báo những bổ sung để các Ngân hàng có cơ sở thực hiện. NHNN cần lấy ý kiến đóng góp của các NHTM, các chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng về các văn bản sắp sửa ban hành, đặc biệt là về các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh. Bên cạnh đó, cần phải có một cơ chế đầy đủ, rõ ràng trao quyền phán quyết cho nhà quản lý sử dụng thích ứng các công cụ phái sinh tiền tệ với các đối tác trong nước và ngoài nước.
Phát huy vai trò kiểm soát:
Tăng cường vai trò kiểm soát của NHNN đối với các NHTM và các Tổ chức tín dụng trong việc thực hiện các quy chế của NHNN ban hành. Qua đó nắm bắt thực trạng, vướng mắc của các ngân hàng để xử lý kịp thời.
Đối với chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá phải linh hoạt, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường. Tỷ giá công bố của NHNN cần theo sát hơn với tỷ giá trên TTNHLNH để thu hẹp đáng kể chênh lệch tỷ giá giao dịch của các ngân hàng với tỷ giá trên thị trường tư nhân.
Nếu NHNN Việt Nam muốn thực hiện chính sách kiểm soát tỷ giá trong biên độ với mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu hoặc mục tiêu bình ổn giá cả thì nên có chính sách can thiệp vào thị trường để điều tiết cung cầu chứ không nên dùng biện pháp hành chính bắt buộc các NHTM phải giao dịch ở mức giá đó. Bởi vì một khi áp lực từ phía cung hoặc phía cầu quá mạnh mà lại bị chặn lại bởi quy định về biên độ thì tất sẽ dẫn đến những rối loạn của thị trường ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp tăng dự trữ ngoại tệ để có thể chủ động điều tiết thị trường.
Phát triển thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng, thực hiện tốt vai trò là người mua bán cuối cùng của NHNN.