Nhìn một cách tổng thể, những năm gần đây đã có một sự gia tăng mạnh mẽ của dòng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam, nhất là trong giai đoạn 2008 – 2009. Trong số đó, không ít các doanh nghiệp FDI chỉ bán hàng trong nước, do đó họ phải bán ngoại tệ lấy VNĐ để thanh toán cho các chi phí hoặc dùng ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị nước ngoài. Sau đó là các quá trình chuyển lợi nhuận về nước và luân chuyển vốn tái đầu tư... Trong quá trình đó, rủi ro tỉ giá luôn tiềm ẩn đối với các doanh nghiệp. Do đó, công cụ phái sinh là biện pháp có khả năng giảm thiểu đến mức thấp nhất rủi ro, giúp doanh nghiệp tránh được những thiệt hại. Vì vậy, việc phát triển áp dụng các nghiệp vụ phái sinh đang trở thành nhu cầu tất yếu. Hơn thế nữa, nó còn tạo ra cơ hội thúc đẩy các dòng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Các yêu cầu ngày càng cao về công khai và minh bạch hóa thông tin
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, tính cạnh tranh ngày càng cao, vấn đề công khai và minh bạch hóa thông tin thị trường ngày càng có những đòi hỏi khắt khe hơn. Do đó, thị trường ngoại hối phải có những biện pháp để nâng cao tính minh bạch của thị trường để giúp cho các nhà đầu tư có cơ hội tiếp cận thị trường một cách công bằng hơn so với trước kia. Từ đó, sẽ giảm được độc quyền, phân biệt và các giao dịch bí mật trong thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt động quảng bá sản phẩm của các ngân hàng.
Tóm lại, Việt Nam đã tham gia vào sân chơi toàn cầu, các yêu cầu, tiểu chuẩn về phát triển kinh tế ngày càng được đòi hỏi cao hơn, tự do hóa, công khai minh bạch là những vấn đề thiết yếu. Khi đó, yêu cầu đặt ra là phải cần những công cụ thị trường để thực hiện hóa, đẩy nhanh tiến trình yêu cầu từ bên ngoài và bên trong nền kinh tế, cũng như để ổn định hóa thị trường. Các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh là những công cụ hiệu quả nhất để thực hiện, đón đầu như cơ hội này.
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh trên Vinaforex trong giai đoạn hiện nay.
3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý tài chính nói chung và các văn bản pháp lý về công cụ phái sinh nói riêng
Như đã phân tích trong chương II, có thể thấy môi trường pháp lý tài chính nói chung và các công cụ phái sinh tiền tệ nói riêng còn nhiều bất cập, chưa thuận tiện cho các doanh nghiệp cũng như các NHTM tham gia vào thị trường tài chính phái sinh. Vì vậy hoàn thiện môi trường pháp lý tài chính nói chung và các văn bản pháp lý về các công cụ phái sinh tiền tệ nói riêng là một nhân tố tiên quyết nhằm đẩy mạnh việc ứng dụng các công cụ trên thị trường ngoại hối Việt Nam .
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Sử Dụng Nghiệp Vụ Phái Sinh Tiền Tệ Trong Bảo Hiểm Rủi Ro Tỷ Giá Của Các Doanh Nghiệp Xnk Việt Nam.
- Đánh Giá Triển Vọng Phát Triển Nghiệp Vụ Ngoại Hối Phái Sinh Trên Thị Trường Ngoại Hối Việt Nam
- Sự Phát Triển Của Thị Trường Các Công Cụ Phái Sinh Tiền Tệ Trên Thế Giới
- Một Số Kiến Nghị Nhằm Phát Triển Các Nghiệp Vụ Ngoại Hối Phái Sinh Trên Vinaforex Trong Giai Đoạn Hiện Nay.
- Các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Thực trạng và giải pháp - 14
- Các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam. Thực trạng và giải pháp - 15
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
- Hoàn thiện môi trường pháp lý:
Hiện nay, các văn bản pháp lý quy định và chi phối các giao dịch phái sinh không nhiều, thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện từ NHNN để thực hiện các giao dịch phái sinh. Điển hình là các hợp đồng phái sinh quyền chọn, theo Quyết định 1452/2004/QĐ – NHNN thì các NHTM chỉ được phép thực hiện bán quyền chọn cho các tổ chức kinh tế cá nhân mà không được mua quyền chọn. Chính vì vậy trong thời gian tới, NHNN cần cho phép NHTM thực hiện việc mua quyền chọn từ các tổ chức kinh tế và cá nhân, có nghĩa là những đối tượng này sẽ được phép bán quyền chọn cho NHTM. Điều này sẽ ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp, thúc đẩy họ tham gia vào thị trường các công cụ phái sinh.
Bên cạnh đó, do các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ còn mới và phức tạp nên chứa đựng nhiều rủi ro. Chính vì vậy, NHNN cần tăng cường quản lý giao dịch hối đoái thông quá việc quản lí trạng thái ngoại tệ. Thay vì NHNN chỉ
quy định trạng thái ngoại tệ vào cuối ngày thì nên chuyển sang việc quy định và quản lý trạng thái ngoại tệ một cách thường xuyên hơn.
Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý điều chỉnh giao dịch phái sinh cũng cần phải lưu ý những vần đề sau:
- Về hình thức văn bản :
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, trong thời gian trước mắt, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu soạn thảo và ban hành ngay các quy chế về kinh doanh các công cụ tài chính phái sinh làm cơ sở pháp lý cho hoạt động cấp phép, giám sát rủi ro và kiểm tra, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh các công cụ này của các ngân hàng thương mại. Trong tương lai, trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu của thị trường, Nhà nước xem xét ban hành Luật giao dịch công cụ tài chính điều chỉnh thống nhất về tổ chức, hoạt động của thị trường tài chính phái sinh và hoạt động kinh doanh các sản phầm tài chính phái sinh phù hợp với thông lệ ở nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực.
- Về quy trình, điều kiện cấp phép và giám sát rủi ro:
Do yêu cầu của quá trình cải cách hành chính, Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi căn bản cơ chế cấp phép cho việc cung cấp từng dịch vụ tài chính phái sinh cụ thể của các ngân hàng thương mại theo hướng: (i) Ngân hàng Nhà nước không cấp phép cho từng sản phẩm tài chính phái sinh của ngân hàng thương mại, mà quy định các điều kiện cần thiết để được cung cấp từng nhóm sản phẩm tài chính phái sinh (trên cơ sở đảm bảo an toàn, có chính sách quản lý rủi ro phù hợp, có đủ năng lực cung cấp dịch vụ). (ii) Ngân hàng Nhà nước không quy định cụ thể các loại sản phẩm tài chính phái sinh mà ngân hàng
thương mại được phép cung cấp trong giấy phép của từng ngân hàng, mà nên quy định chung theo nhóm các dịch vụ tài chính phái sinh sẽ được cung cấp (có thể theo tiêu chí phân loại dựa vào tài sản gốc của công cụ phái sinh như các công cụ tài chính phái sinh dựa trên giao dịch ngoại tệ, lãi suất,..)
3.2.2. Hoàn thiện thị trường ngoại hối - hướng Vinaforex hội nhập với thế giới.
Hiện nay, về cơ bản, Vinaforex mới chỉ hoạt động đóng khung trong phạm vi quốc gia. Việc tham gia hoạt động trên thị trường ngoại hối quốc tế của các NHTM còn rất hạn chế. Vì vậy, vấn đề từng bước hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam hội nhập với xu hướng quốc tế là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh hiện nay.
Trong bối cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay, theo lộ trình hội nhập mà nước ta đã cam kết với tổ chức thương mại hế giới (WTO), nhà nước cần nới lỏng dần chính sách can thiệp trực tiếp vào thị trường. Đối với thị trường ngoại hối, nhà nước nên dần thực hiện chính sách tự do hóa tỉ giá bằng cách dần dần nới rộng biên độ dao động tỉ giá (hiện nay đã là +/-3%). Đến một thời điểm thích hợp, có thể xóa bỏ biên độ dao động tỉ giá hướng đến tự do hóa chuyển đổi tiền đồng Việt Nam. Điều này sẽ đảm bảo tỉ giá phản ánh thực chất cung cầu trên thị trường. Khi đó, rủi ro đối với các giao dịch ngoại hối sẽ dần hiện rõ, gây ra những thiệt hại lớn, buộc các doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư phải quan tâm đến các hợp đồng phái sinh để bảo hiểm rui ro cho chính mình. Khi đó, NHNN chỉ làm nhiệm vụ can thiệp trên thị trường ngoại hối để tỷ giá biến động có lợi cho nền kinh tế, đồng thời chuyển hướng dần sang sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại tệ.
Đồng thời, song song với việc hướng tới chính sách tỷ giá cân bằng cung cầu cần chú ý đến việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng trên Vinaforex. Bởi,
nếu có một thị trường liên ngân hàng hoạt động hiệu quả thì mới nâng cao được chất lượng dịch vụ kinh doanh ngoại tệ nói chung và việc đẩy mạnh áp dụng những nghiệp vụ mới như phái sinh nói riêng. Do đó, cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:
- Phát huy vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối: Thực hiện vai trò hướng dẫn điều tiết tỷ giá thông qua việc trở thành người mua bán cuối cùng trên Vinaforex. Từ đó, tích cực tham gia thực hiện các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh để tạo điều kiện cho các NHTM khác tham gia tích cực hơn. Bên cạnh đó, các biện pháp can thiệp của NHNN trên Vinaforex phải nhanh chóng, kịp thời để thị trường hoạt động thông suốt, hiệu quả.
- Tiến tới, thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gian tiếp qua trung gian. Đồng thời, mở rộng số lượng thành viên và tạo môi trường thuận lợi trên Vinaforex để các thành viên tham gia tích cực hơn, thị trường trở nên sôi động hơn..
- Ngoài ra, việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hóa khâu thanh toán, trang bị công nghệ tiên tiến, nâng cao kĩ năng cho cán bộ...cũng phải được xem xét thực hiện.
Hơn nữa, để Vinaforex hoạt động theo đúng nghĩa của nó và góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế thì việc mở rộng và phát triển các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối hơn nưa là cần thiết.
Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, như đã phân tích ở chương I, các nhân tố xác định và ảnh hưởng đến tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá hoán đổi của hai nghiệp vụ này bao gồm tỷ giá giao ngay, mức chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong giao dịch và thời hạn của hợp đồng. Vì vậy, để các nghiệp vụ này có thể phát
triển xa hơn nữa thì cơ chế xác định tỷ giá và lãi suất đóng vai trò quyết định. Có thể thấy rằng, mục đích chính sử dụng hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá. Bởi vậy, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Rõ ràng là, với chính sách tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo ra môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi. Điều này nói lên rằng, định hướng trong chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước cần phải tăng dần hàm lượng các biến số thị trường trong việc xác định tỷ giá, có như vậy tỷ giá mới phản ánh thực chất quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối.
Còn đối với hợp đồng quyền chọn, hiện nay Ngân hàng Nhà nước mới chỉ cho áp dụng quyền chọn kiểu châu Âu để trợ giúp doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro. Hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ hầu như không được khuyến khích do NHNN lo ngại tính đầu cơ chưa phù hợp với giai đoạn nước ta trong thời gian đầu. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển ở trình độ cao hơn thì cũng cần phải xem xét triển khai nghiệp vụ này.
Hơn thế nữa, quyền chọn lại có những quy định về giới hạn và giá mua rất rõ ràng (đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần và sàn. Nếu tỷ giá vượt quá các mức giá này thì quyền chọn sẽ không còn có giá trị và chỉ với những hợp đồng có giá trị 50.000USD trở lên mới được mua quyền chọn). Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư, giảm nguy cơ xáo trộn hoặc bóp méo thị trường khi các nhà đầu cơ tác động lên giá cả thị trường. Tuy nhiên, trong tương lai, khi các ngân hàng và doanh nghiệp đã quen dần với giao dịch quyền chọn thì NHNN cần nới lỏng các điều kiện này cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời giúp các doanh nghiệp có những hợp đồng xuất nhập khẩu có giá trị dưới 50.000USD cũng có thể sử dụng quyền chọn để bảo hiểm
cho các khoản thu chi xuất nhập khẩu của mình. Bên cạnh đó, khi thị trường phát triển cao, cần phải có những quy định linh hoạt hơn, mở rộng hoạt động kinh doanh cho các NHTM, không chỉ có vai trò cung cấp sản phẩm phái sinh quyền chọn mà còn có thể sử dụng hợp đồng như một công cụ kiếm lời trong khuôn khổ cho phép của Nhà nước.
Với hợp đồng tuơng lai, thì sau khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế tài chính thế giới, Ngân hàng Nhà nước nên cho phép triển khai phổ biến hợp đồng tương lai nhằm đa dạng các công cụ giao dịch và cung cấp cho doanh nghiệp biện pháp phòng ngừa rủi ro ở mức độ cao và linh hoạt.
Bên cạnh việc hoàn thiện và nâng cao và mở rộng chất lượng các nghiệp vụ phái sinh, áp dụng các phương thức và phương tiện giao dịch hiện đại vào hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nói riêng và thị trường ngoại hối Việt Nam nói riêng thì việc định hướng để đưa thị trường Việt Nam hội nhập với thế giới là cần thiết. Vì vậy, để bôi trơn và đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, thì thị trường ngoại hối Việt Nam phải từng bước phát triển hội nhập với thị trường ngoại hối quốc tế.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả thị trường thông qua công khai và minh bạch hóa thông tin.
Thị trường tài chính Việt Nam nói chung và Vinaforex nói riêng vẫn còn khá mới mẻ và đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển. Do vậy, nhìn một cách tổng quát các thông tin trên thị trường còn mang tính tự phát, thiếu sự quản lý và ràng buộc từ các cơ quan quản lý nhà nước. Để giúp cho các nghiệp vụ phái sinh ngày càng phát triển cao thì đòi hỏi thông tin trên thị trường cần được công khai minh bạch hóa. Nhà nước cần ra những quy chế và
hướng dẫn chi tiết hơn, đồng thời cũng cần phải có những chế tài nghiêm khắc hơn so với các vi phạm về công bố thông tin.
Mặt khác, việc yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính cũng là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai. Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin rằng hiện nay ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua vàng thế giới bán lại cho người từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn nhau, để tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch.
3.2.4. Thay đổi một số qui định về hạch toán kế toán.
Các vấn đề về hạch toán quyền chọn nói riêng và các công cụ phái sinh nói chung hiện nay còn khá mới mẻ ở nước ta. Do đó, nhà nước nên điều chỉnh, hoàn thiện các vấn đề pháp lý về hạch toán, sửa đổi những quy định không phù hợp của Luật kế toán đồng thời bổ sung các chuẩn mực kế toán áp dụng cho các công cụ phái sinh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế.
Do việc vận dụng khung pháp lý kế toán của Việt Nam có sự khác biệt so với Chuẩn mực kế toán quốc tế, từ đó, các kết quả giao dịch công cụ phái sinh trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp bị phản ảnh sai lệch, dẫn đến thông tin không đầy đủ, thiếu trung thực. Hơn thế nữa, khi ở quy mô lớn, các kết quả kinh doanh bị sai lệnh với mức độ lớn, gây ảnh hưởng xấu đối với bản thân doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển của cả nền kinh tế. Do