Phát Triển Năng Lực Làm Việc Với Sách Giáo Khoa Cho Học Sinh


thành công cao. Người có NL về lĩnh vực nào sẽ giải quyết công việc của lĩnh vực đó nhanh chóng, hiệu quả hơn người hác. Đồng thời có thể vượt qua những hó hăn, thách thức mới một cách dễ dàng hơn những người hác [85]. Khi con người hoạt động liên tục và lặp lại một loại hoạt động nào đó chuyên biệt một cách thành thạo sẽ hình thành KN, ỹ xảo đối với công việc đó. Nếu người có KN thành thạo mà còn có thể thực hiện linh hoạt và có thể xử lí các yếu tố liên quan đến công việc với ết quả cao, ta nói người đó có NL làm việc với công việc hay lĩnh vực công việc đó [85].

- Theo Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể trong chương trình giáo dục phổ thông mới (tháng 7/2015) của Bộ giáo dục và Đào tạo: Năng lực là khả năng thực hiện thành công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính cá nhân hác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Năng lực của cá nhân được đánh giá qua phương thức và kết quả hoạt động của cá nhân đó hi giải quyết các vấn đề của cuộc sống [14] .

- Theo Nguyễn Quang Uẩn: NL là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một loại hình hoạt động cụ thể, đảm bảo cho hoạt động đó có ết quả tốt. NL là mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị hoàn thành có kết quả một hoạt động cụ thể. NL vừa là tiền đề, vừa là kết quả của hoạt động.” [86].

Như vậy, có thể quan niệm, NL là hả năng mà mỗi con người có thể thực hiện một loại công việc nào đó với hả năng xử lí công việc tốt, linh hoạt mang lại thành công cao trong lĩnh vực công việc tương ứng. Người có NL về lĩnh vực nào đó sẽ có động cơ, hứng thú, niềm tin, trách nhiệm và tính sẵn sàng thực hiện các công việc thuộc lĩnh vực đó. Năng lực gắn liền với KN trong lĩnh vực hoạt động tương ứng. Rèn luyện được KN đối với một lĩnh vực công việc nào đó tức là đã phát triển được NL làm việc với lĩnh vực đó.

b) Năng lực làm việc với SGK

SGK VL là sách dùng riêng cho giảng dạy VL, trình bày hệ thống kiến thức cơ sở của bộ môn VL, cụ thể hoá các yêu cầu về nội dung kiến thức và KN quy định trong chương trình VL. SGK VL giúp định hướng quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và thực hành theo NL của người học, góp phần bồi dưỡng các PP nhận thức khoa học cho HS. Học sinh học tập, nghiên cứu VL cần làm việc với SGK


VL, thông qua việc tìm kiếm, xử lí và ứng dụng các thông tin cần thiết từ các kênh thông tin ở SGK VL để giải quyết thấu đáo nhiệm vụ học tập, nghiên cứu của mình. Khi làm việc với SGK VL, học sinh phải khai thác, xử lí và ứng dụng các thông tin từ các kênh hình, kênh chữ. Mỗi loại kênh thông tin yêu cầu một chuỗi các thao tác phù hợp, các thao tác này cần được rèn luyện bền bỉ, nâng dần và sử dụng thành thạo trong mọi tình huống. Học sinh biết khai thác và sử dụng linh hoạt các thông tin từ kênh hình, kênh chữ trong SGK VL một cách linh hoạt để giải quyết được các nhiệm vụ học tập sẽ có NL làm việc với SGK VL, và sẽ góp phần nâng cao khả năng tự học tập bộ môn nói riêng và tự học nói chung.

Như vậy, NLLV với SGK VL là khả năng mà mỗi HS có thể khai thác, xử lí, sử dụng linh hoạt các thông tin từ các kênh thông tin của SGK VL một cách có chủ đích, linh hoạt trong các tình huống học tập, nghiên cứu mang lại hiệu quả nghiên cứu, học tập bộ môn Vật lí cho bản thân. Năng lực làm việc với SGK VL cần được rèn luyện thông qua rèn luyện các hoạt động làm việc với SGK VL mà cụ thể là các hoạt động làm việc với các kênh thông tin của SGK VL. Học sinh có NLLV với SGK VL sẽ có động cơ học tập bộ môn VL rõ ràng hơn, góp phần kích thích hứng thú học tập, nghiên cứu bộ môn. Từ đó tạo niềm tin vào khoa học và góp phần giải quyết được các tình huống liên quan đến bộ môn VL trong cuộc sống.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

Năng lực làm việc với SGK VL cần được phát triển trong suốt quá trình học tập và tương tác với SGK VL. Dưới đây trình bày cơ sở của việc phát triển NLLV với SGK VL.

2.2.2. Phát triển năng lực làm việc với sách giáo khoa cho học sinh

Phát triển năng lực làm việc với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học phần điện học Vật lý 11 nâng cao trung học phổ thông - 7

Phát triển NL là một quá trình phức tạp, lâu dài, bao gồm trong đó cả việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng [86].

- Con người khi vừa mới sinh ra chưa có NL và chưa có nhân cách. Trong quá trình sống, lao động, học tập, giao lưu con người đã được hình thành và phát triển nhân cách, và NL của mình. Quá trình hình thành và phát triển NL của con người chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Trong đó có yếu tố sinh học, yếu tố hoạt động của chủ thể, và yếu tố giao lưu xã hội. Trong các yếu tố này, yếu tố hoạt động của chủ thể có ý nghĩa quyết định việc hình thành và phát triển các NL của chủ


thể. Khi chủ thể thực hiện lặp lại có chủ đích, có PP nhiều lần một công việc, hành động, thao tác nào đó, thì sẽ phát triển được ở chủ thể NL thực hiện công việc đó [85].

- Năng lực của mỗi người được hình thành và phát triển trên cơ sở những tư chất. Nhưng điều chủ yếu là NL được hình thành và phát triển trong hoạt động tích cực của con người dưới tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục [87].

Như vậy, muốn phát triển NL nào đó phải thông qua rèn luyện các KN cần thiết tương ứng với loại NL đó. Việc phát triển NL làm việc với SGK VL cho HS được thực hiện thông qua việc rèn luyện có chủ đích, có PP cho HS hệ thống các KN làm việc với SGK VL. Cụ thể, muốn phát triển NL làm việc với SGK VL phải thông qua rèn luyện các KN làm việc với kênh hình, kênh chữ, kênh hình kết hợp với kênh chữ. HS có KNLV với SGK VL thành thạo và vận dụng tốt vào các tình huống mới thì HS đã có NLLV với SGK VL.

2.2.3. Hệ thống kỹ năng làm việc với sách giáo khoa vật lí

KNLV với sách, KNLV với SGK trong dạy học đã được nhiều nhà lí luận dạy học trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu. Mỗi tác giả, trong nghiên cứu của mình đã phân chia các KN theo cách riêng và há phong phú.

- Các tác giả: Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành [6], Nguyễn Ngọc Quang [65], Hà Thế Ngữ, Phạm Thị Diệu Vân [56], Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức [7], Trần Bá Hoành, Trịnh Nguyên Giao [36], [37], Thái Duy Tuyên [84], T.A. Ilina [68],

N.V. Savin [60]…đã xác định các KN làm việc với SGK gồm: KN đọc (đọc lướt, đọc chậm, đọc ĩ, đọc nghiên cứu), KN ghi chép (ghi trích dẫn theo đề cương, ghi dàn ý, ghi tóm tắt, lập sơ đồ), KN xử lí nội dung đọc (trả lời câu hỏi, lập đề cương, lập dàn ý, tóm tắt nội dung đọc), KN phân tích hình vẽ, bảng biểu, sơ đồ, đồ thị….

- Theo A.V. Uxova và một số nhà PP giảng dạy VL của Liên Xô, xác định các KN làm việc với SGK cần rèn luyện cho HS bao gồm các KN: hiểu lời trình bày trong văn bản, tìm trong văn bản câu trả lời cho câu hỏi cho trước, làm việc với hình vẽ, làm việc với đồ thị và các bảng giá trị của các đại lượng VL, rút ra nội dung chủ yếu (tìm ý chính) của văn bản [dẫn theo Phạm Thế Dân].

- Tác giả Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành cũng xác định các KN làm việc với SGK cho HS trong dạy học môn Sinh học bao gồm: KN tách ra nội dung


bản chất từ tài liệu đọc được, KN phân loại tài liệu đọc được, KN trả lời câu hỏi dựa trên tài liệu đọc được, KN lập dàn bài hi đọc, KN soạn đề cương, KN tóm tắt tài liệu đọc được, KN đọc và phân tích bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị, hình vẽ [6].

- Trong nghiên cứu về hình thành cho học sinh THCS ỹ năng học tập môn VL, tác giả Phạm Thế Dân đã xác định các KN cần rèn luyện cho HS bao gồm: KN làm việc với văn bản, KN làm việc với hình vẽ, KN làm việc với đồ thị, KN làm việc với bảng giá trị của các đại lượng vật lí [26].

- Trong luận án của mình, tác giả Trần Văn Hiếu đã xác định hệ thống KN làm việc độc lập với sách của sinh viên bao gồm năm nhóm KN: nhóm định hướng, nhóm thu thông tin, nhóm xử lí thông tin, nhóm ứng dụng thông tin, nhóm iểm tra và đánh giá ết quả tổng hợp ( ỹ năng iểm tra, kỹ năng đánh giá) [34].

- Tác giả Nguyễn Văn Hoan cho rằng: trong dạy học VL và Sinh học THCS, cần rèn luyện cho học sinh THCS các KN chủ yếu bao gồm: KN làm việc với văn bản, KN làm việc với hình vẽ, KN làm việc với bảng biểu cung cấp thông tin, KN rút ra nội dung chủ yếu của bài [35].

- Tiếp thu các quan niệm về KN làm việc với SGK và từ đặc trưng của SGK Sinh học và quá trình dạy học ở trường THPT, Nguyễn Duân đã xác định các KN cần rèn luyện cho HS trong dạy học môn Sinh học ở trường THPT gồm các KN: các KNLV với ênh chữ, các KNLV với ênh hình, KN hai thác thông tin từ bảng trong SGK và KN vận dụng thông tin đọc được từ SGK [28].

- Khi nghiên cứu về mô hình dạy học truyền thống tích cực hướng tới mục tiêu GD môn VL hiện nay ở Việt Nam, tác giả Đỗ Hương Trà cũng xác định mục tiêu GD của môn VL cấp THPT là HS cần đạt được các KN cần thiết để giải quyết vấn đề trong học tập và nghiên cứu VL gồm: thu thập, xử lí, lưu giữ thông tin [74].

- Trong luận án của mình, Nguyễn Thị Hà (2013) đã xác định 10 KN tự lực làm việc với SGK Sinh học ở THPT èm theo hướng dẫn KN tổ chức hình thành các KN cụ thể, bao gồm: KN tổ chức HS tìm ý chính của đoạn văn bản, KN tổ chức HS tóm tắt nội dung đoạn văn bản, KN hướng dẫn HS lập dàn ý, KN hướng dẫn HS lập bảng, KN hướng dẫn HS lập sơ đồ, KN tổ chức HS khai thác tranh ảnh trong SGK, KN tổ chức HS khai thác thông tin từ sơ đồ, KN tổ chức HS khai thác thông tin từ đồ


thị, KN tổ chức HS khai thác thông tin từ bảng, KN tổ chức HS vận dụng thông tin đọc được từ sách [33].

Mặc dù chưa thống nhất về các KN cần rèn luyện hi làm việc với sách và tài liệu học tập, nhưng hầu hết các nghiên cứu ể trên đều xác định các KNLV với SGK và sách phù hợp với phạm vi nghiên cứu của mỗi tác giả. Các KNLV với sách và tài liệu học tập đã được xác định phần lớn có sự giao nhau mặc dù hông hoàn toàn.

Phân tích các KN làm việc với sách, cho thấy các KN, nhóm KN có sự giao nhau. Kết hợp với đặc điểm cấu trúc, chức năng của SGK VL trong hoạt động dạy và học như đã trình bày ở phần trước của đề tài, nghiên cứu này xác định hệ thống KNLV với SGK VL cần rèn luyện nhằm phát triển NLLV với SGK VL cho học sinh THPT gồm: hệ thống KNLV với ênh chữ, hệ thống KNLV với ênh hình, ỹ năng làm việc phối hợp giữa ênh chữ với ênh hình.

2.2.3.1. Hệ thống kỹ năng làm việc với kênh chữ

Căn cứ vào đặc điểm đặc thù của kênh chữ ở SGK VL, có thể chia hệ thống KNLV với kênh chữ gồm các nhóm KN sau.

a) Nhóm kỹ năng thu thập thông tin

Thu thập thông tin từ ênh chữ là hoạt động tìm iếm, xác định các thông tin quan trọng, cần thiết phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu, chọn lọc những thông tin cần thiết phục vụ mục tiêu nhận thức của cá nhân người đọc từ ênh chữ được trình bày ở SGK. Kết quả của hoạt động thu thập thông tin là người đọc phải có được đầy đủ thông tin cần thiết cho hoạt động học tập, nhận thức, nghiên cứu của bản thân.

Nhóm KN thu thập thông tin bao gồm các KN cơ bản sau: KN đọc để tìm

iếm thông tin, KN đọc để tập hợp thông tin, KN tìm ý chính.

Kỹ năng đọc để tìm kiếm thông tin

Kỹ năng đọc để tìm kiếm thông tin là khả năng người đọc sử dụng thành thạo các thao tác đọc để xác định được vị trí của các thông tin cần thiết nhằm đạt được yêu cầu tìm kiếm thông tin. Các thao tác đọc bao gồm: đọc thông tin cần tìm kiếm, đọc đề mục có chứa các từ trọng tâm của thông tin yêu cầu tìm kiếm, đọc toàn bộ đoạn văn bản, đọc lướt đoạn văn bản, đọc lướt nhanh đoạn văn bản.

Mức độ thành thạo của KN đọc để tìm kiếm thông tin có thể chia làm ba mức


độ lần lược từ thấp đến cao là: đọc toàn bộ đoạn văn bản và xác định được vị trí của thông tin cần tìm kiếm, đọc lướt đoạn văn bản và xác định được vị trí của thông tin cần tìm kiếm, đọc lướt đoạn văn bản và xác định được vị trí của thông tin cần tìm kiếm trong thời gian ngắn.

Kỹ năng đọc để tập hợp (thu nhận) thông tin

Kỹ năng đọc để tập hợp thông tin là khả năng người đọc sử dụng thành thạo các thao tác tìm kiếm thông tin, và sắp xếp các thông tin tìm kiếm được để đáp ứng được các yêu cầu tập hợp thông tin. Tùy thuộc vào yêu cầu tập hợp thông tin mà các kết quả của việc tập hợp thông tin từ cùng một đoạn văn bản có thể khác nhau, các kết quả tập hợp thông tin từ đoạn văn bản có thể không phải là ý chính của đoạn văn bản đó. Các thao tác đọc để tập hợp thông tin bao gồm: các thao tác tìm kiếm thông tin và thao tác tổng hợp thông tin. Thao tác tổng hợp thông tin bao gồm: nhận ra nội dung của các thông tin tìm được, liên kết các thông tin tìm được thành một tập hợp thống nhất các thông tin theo yêu cầu tập hợp thông tin.

Mức độ của KN đọc để tập hợp thông tin có thể chia ra làm ba mức độ lần lược từ thấp đến cao là: tìm được nhưng chưa tập hợp đủ các thông tin có liên quan theo yêu cầu, tìm đủ và tập hợp được thông tin theo yêu cầu, tìm đủ và tập hợp được các thông tin đáp ứng yêu cầu trong thời gian ngắn.

Kỹ năng tìm ý chính

Kỹ năng tìm ý chính từ đoạn văn bản của ênh chữ là hả năng người đọc sử dụng thành thạo các thao tác đọc để tìm iếm thông tin ết hợp với phân tích, tổng hợp các thông tin quan trọng của đoạn văn bản. Từ đó, rút ra nội dung cốt lõi của đoạn văn bản và diễn đạt lại một cách ngắn gọn, súc tích nhưng mang ý nghĩa trọn vẹn nhất. Để tìm được ý chính của đoạn văn bản, thông thường người đọc phải đọc hết toàn bộ đoạn văn bản, hoặc ết hợp đề mục với nội dung đoạn văn bản. Các thao tác đọc để tìm ý chính bao gồm: đọc đề mục và toàn bộ đoạn văn bản, xác định nội dung liên quan gần nhất với đề mục từ đoạn văn bản bằng cách đánh dấu, phân tích mối liên hệ giữa các nội dung đã được đánh dấu, xâu chuỗi các nội dung liên quan mật thiết với nhau để có được ý chính của đoạn văn bản.

Mức độ của KN tìm ý chính có thể chia ra làm các mức độ lần lược từ thấp


đến cao là: tìm được ý chính nhưng chưa trọn vẹn, tìm được ý chính trọn vẹn nhưng mất nhiều thời gian, tìm được ý chính trọn vẹn trong thời gian ngắn.

Như vậy, các KN thuộc nhóm KN thu thập thông tin có phần lớn các thao tác giao nhau. Dó đó, có thể thực hiện các bước rèn luyện tương tự nhau, chỉ hác nhau chút ít tùy vào từng KN.

b) Nhóm kỹ năng xử lí thông tin

Xử lí thông tin từ ênh chữ là hoạt động chế biến” các thông tin có được từ

ênh chữ theo hướng giải quyết nhiệm vụ nhận thức, lĩnh hội iến thức của cá nhân. Đây là nhóm KN rất quan trọng đối với mọi quá trình nghiên cứu. Mọi sáng tạo, phát minh thường xảy ra trong quá trình này [85]. Tuỳ thuộc vào mục tiêu học tập, lĩnh hội iến thức mà các thông tin từ ênh chữ được hai thác, xử lí theo hướng phù hợp nhất. Kết quả của hoạt động xử lí thông tin là người đọc phải có được iến thức (tri thức) từ các thông tin vừa xử lí.

Nhóm KN xử lí thông tin từ ênh chữ gồm: ỹ năng lập dàn ý, ỹ năng lập bảng, ỹ năng lập sơ đồ, ỹ năng đánh giá thông tin.

Kỹ năng lập dàn ý

Kỹ năng lập dàn ý là khả năng mà người đọc thông tin sử dụng các thao tác tái hiện trên giấy các thông tin đã được tổng hợp thành hệ thống các ý chính, ý bổ sung theo cách của riêng mình để dễ dàng lưu trữ kiến thức theo trình tự lô-gíc của thông tin dưới dạng một dàn bài hay một đề cương. Các dàn bài hay đề cương được xây dựng từ những từ, ngữ mang nội dung cốt lõi của nội dung kiến thức đã đọc và tổng hợp. Các từ, ngữ mang nội dung tổng quát được trình bày dưới dạng đề mục ngắn gọn và nổi bật, tiếp đến là các ý chính có vai trò tương đương được trình bày mở đầu bằng các kí hiệu giống nhau, hoặc bằng kí tự theo thứ tự bảng các chữ cái. Cuối cùng của mỗi ý chính là các ý bổ sung, các dẫn chứng nhằm làm rõ nội dung ý chính.

Kỹ năng lập dàn ý mà người đọc đạt được có thể phân làm các mức độ từ thấp đến cao lần lượt như sau: lập được dàn ý nhưng sắp xếp không lô-gíc, lập được dàn ý logic nhưng các minh chứng chưa rõ ràng, lập được dàn ý logic với các minh chứng rõ ràng dễ nhớ.


Kỹ năng lập bảng

Kỹ năng lập bảng hi xử lí thông tin có được từ ênh chữ là hả năng mà người đọc sử dụng các thao tác như: đặt tên cho bảng, đặt tên cho các cột, các dòng và điền được các thông tin chính xác vào các cột và dòng tương ứng. Việc đặt tên cho bảng dựa trên nội dung tập trung nhất của thông tin cần lập bảng. Các cột và dòng được đặt tên dựa vào các ý chính của thông tin cần xử lí, nội dung điền vào các cột và dòng tương ứng là các thông tin chi tiết ứng với các cột các dòng đó, và mang tính liệt ê bằng những từ, ngữ ngắn gọn, súc tích nhưng đảm bảo hiểu đúng thông tin.

Các mức độ của KN lập bảng hi xử lí thông tin được chia làm các mức độ từ thấp đến cao lần lượt là: đặt được tên cột và dòng nhưng chưa đặt được tên bảng và chưa điền được thông tin vào các cột và dòng tương ứng; đặt được tên cột, dòng và điền được thông tin vào các cột và dòng tương ứng nhưng chưa đặt được tên bảng; đặt được tên bảng, tên dòng, tên cột và điền đầy đủ thông tin vào các dòng và cột tương ứng một cách chính xác, ngắn gọn.

Kỹ năng lập sơ đồ

Kỹ năng lập sơ đồ hi xử lí thông tin có được từ ênh chữ là hả năng mà người đọc chuyển nội dung iến thức được trình bày từ ênh chữ sang ênh hình, tức là sơ đồ hóa ênh chữ. HS thực hiện thành thạo các thao tác như: xác định thông tin cốt lõi (thông tin chính), thông tin thứ cấp, đặt tên sơ đồ, sắp xếp các thông tin có mối liên hệ mật thiết với nhau và sơ đồ hóa được các thông tin đó dưới dạng đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu và lưu trữ” được lâu. Việc sơ đồ hóa có thể sử dụng nhiều dạng sơ đồ thường gặp hác nhau như sơ đồ hối, sơ đồ hình cây, đặc biệt nên dùng sơ đồ tư duy (Mindmap). Ở đây, HS thỏa mái sáng tạo theo ý và trí tưởng tượng của mình và chọn những màu sắc, những hình ảnh minh họa phù hợp nhất [79]. Dạy cho HS sơ đồ hóa ênh chữ cũng đáp ứng được nguyên tắc trực quan trong dạy học.

Mức thấp nhất của lập sơ đồ là: xác định được thông tin chính và thể hiện bằng từ hóa đắc nhất, xác định các thông tin thứ cấp và biểu diễn được bằng sơ đồ hợp lí mà chưa có hình ảnh, thông tin minh họa, chưa đặt được tên sơ đồ. Mức cao hơn của lập sơ đồ là xác định được thông tin chính và thể hiện bằng từ hóa đắc nhất, xác định các thông tin thứ cấp và biểu diễn được bằng sơ đồ hợp lí và đặt được

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/05/2022