Vai Trò Của Các Chính Sách Hỗ Trợ Tài Chính Trong Việc Nâng Cao Năng Lực Xuất Khẩu Của Dnnvv

* Tín dụng ngân hàng

Đối với các DNNVV, vốn chủ yếu được huy động qua ba nguồn chính: vốn tự có, vốn liên doanh, liên kết và vốn tín dụng. Trong đó, vốn tự có của bản thân doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư vào sản xuất kinh doanh là rất hạn chế. Trong khi đó, vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu là rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn cả trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng, kéo dài khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành cho người mua nước ngoài. Do vậy, nguồn vốn tín dụng mà doanh nghiệp có thể vay từ các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác giữ vai trò hết sức quan trọng, quyết định hiệu quả sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ vào nguồn vốn này, các DNNVV có thể mở rộng vốn để đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu với chi phí thấp thay vì chỉ có nguồn vốn tự có hạn hẹp và giá vốn lại cao. Tín dụng ngân hàng đã góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp.

Lãi suất chính là khoản chi phí của việc vay vốn, do đó, sự sẵn có của các khoản vay cũng như những ưu đãi của Chính phủ về lãi suất, thời hạn vay, nới lỏng điều kiện vay, đặc biệt là trong những thời điểm kinh tế khó khăn đã phần nào gánh vác, chia sẻ bớt gánh nặng tiếp cận cũng như chi phí về vốn, khiến các DNNVV yên tâm đầu tư vào tài sản cố định, cơ sở hạ tầng, đổi mới dây chuyền công nghệ, sản xuất những mặt hàng có hàm lượng kĩ thuật cao, giảm chi phí sản xuất để nâng cao năng lực xuất khẩu.

Các ngân hàng thường hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu bằng cách cấp tín dụng trước và sau khi giao hàng. Loại tín dụng trước khi giao hàng giúp doanh nghiệp đảm bảo các chi phí như nguyên vật liệu, sản xuất, vận tải, bảo hiểm, thuế… Tín dụng sau khi giao hàng được ngân hàng cấp dưới hình thức mua (chiết khấu) hối phiếu xuất khẩu hoặc tạm ứng theo các chứng từ hàng hóa. Tín dụng xuất khẩu theo mức lãi suất ưu đãi giúp nhà xuất khẩu thực hiện được chương trình xuất khẩu của mình, giảm được chi phí vốn, giảm giá thành xuất khẩu, tăng khả năng bán được hàng theo điều kiện dài hạn, tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa.

Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên cơ sở hiệu quả kinh tế chứ không phải là vốn cấp phát, tài trợ, vì thế tín dụng ngân hàng không chỉ dẫn vốn đến doanh

nghiệp mà còn kiểm soát việc sử dụng đồng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng đóng vai trò là người cho vay nên phải chủ động kiểm tra tiềm lực thực sự của doanh nghiệp, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của người đi vay. Điều đó tăng tính hiệu quả và thiết thực của đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Đồng thời qua đó, thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kế toán, vừa giúp Nhà nước trong khâu quản lý, vừa giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, trả được lãi ngân hàng và tạo uy tín tiếp tục vay vốn mở rộng sản xuất.

* Cho thuê tài chính

Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hay tiếp tục thuê theo những điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương với giá trị tài sản đó tại thời điểm kí hợp đồng.

Đặc trưng của phương thức này là đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự đảm bảo tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản đảm bảo nếu phải vay ngân hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại có vốn lưu động để sản xuất kinh doanh.

Loại hình này rất thích hợp cho DNNVV bởi vì với ưu điểm không phải thế chấp tài sản, các doanh nghiệp khi thuê tài chính không bị vướng thủ tục thế chấp tài sản nếu phải vay vốn ở ngân hàng. Ngoài ra, trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp trực tiếp bằng tiền và doanh nghiệp sử dụng tiền vốn đó để đi đầu tư máy móc, thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất của mình. Còn đối với cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ cho bên thuê bằng các tài sản như máy móc, thiết bịNhư vậy, so với tài trợ tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, cho thuê tài chính đảm bảo cho khoản tài trợ là khoản tiền được bỏ ra đúng mục đích. Tuy nhiên, phí cho thuê với thường cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn của ngân hàng do phí cho thuê tài chính tính trên cơ sở lãi suất trung và dài hạn cộng với chi phí phát sinh đối với tài sản và chi phí quản lý của công ty cho thuê tài chính.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Có thể nói, cho thuê tài chính là một hình thức cung cấp tín dụng trung và dài hạn khá hiệu quả với những ưu việt nhất định. Nó góp phần giải quyết gánh nặng về thiếu vốn của các DNNVV, từ đó mở rộng sản xuất, quy mô cũng như công nghệ để thúc đẩy xuất khẩu. Một trong những tồn tại của DNNVV là năng lực tiếp cận tín dụng rất hạn chế, trong khi để mở rộng và phát triển theo hướng xuất khẩu lại cần rất nhiều vốn và định hướng đúng đắn. Xuất phát từ thực tế đó, cho thuê tài chính tồn tại song song cùng với các hình thức tín dụng trung dài hạn chính thức khác và thể hiện vai trò tích cực của mình trong việc dẫn vốn đến với doanh nghiệp, mở ra cơ hội và điều kiện cần thiết nhất cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn hiệu quả và phát triển sản xuất, kinh doanh.

* Bảo lãnh tín dụng

Một số chính sách hỗ trợ tài chính nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam - 4

Bảo lãnh tín dụng là hình thức bảo lãnh ngân hàng do tổ chức phát hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn.

Hình thức bảo lãnh tín dụng là một chính sách hỗ trợ tài chính hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp trong quá trình vay vốn, mở rộng sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là với tiềm lực cũng như uy tín hạn chế của các DNNVV. Các DNNVV mặc dù có nhu cầu về vốn rất lớn nhưng lại mắc phải trở ngại là các điều

kiện tiếp cận nguồn vốn vay. Nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng thông qua các quỹ bảo lãnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV dễ dàng và thuận lợi vay vốn ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính khác.

Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp thực hiện việc bán chịu hoặc trả chậm với lãi suất ưu đãi đối với người mua hàng nước ngoài, điều này dễ dẫn đến rủi ro. Khi đó, Nhà nước đứng ra bảo lãnh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu bằng cách bán chịu. Nhà nước đứng ra bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu, còn nâng được giá bán hàng hóa vì bán chịu bao gồm cả giá bán tiền trả ngay và phí tổn đảm bảo lợi tức. Đây là một hình thức khá phổ biến trong chính sách ngoại thương của nhiều nước để mở rộng xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường.

Bảo lãnh tín dụng ngân hàng mang đến cho cả hai bên ngân hàng và doanh nghiệp những lợi ích rất đáng kể. Ngoài ra việc hỗ trợ doanh nghiệp để tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, những động thái trên còn gián tiếp giúp hệ thống ngân hàng đẩy mạnh hoạt động tín dụng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay. Bảo lãnh tín dụng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp vì tuy ngân hàng đứng ra bảo lãnh nhưng doanh nghiệp vẫn phải trả vốn, lãi và phí bảo lãnh do đó nó kích thích doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả, thực hiện đầy đủ và đúng hợp đồng - điều đặc biệt quan trọng trong hoạt động xuất khẩu và thương mại quốc tế ngày nay.

* Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu

Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (Export Credit insurance) là loại bảo hiểm bảo vệ và bồi thường cho người xuất khẩu khi họ cấp tín dụng thương mại (bán trả chậm) hoặc bảo vệ và bồi thường cho các ngân hàng khi ngân hàng cho vay trung và dài hạn. Phạm vi bảo hiểm này bao gồm các khoản khiếu nại tổn thất do không thanh toán những khoản phải thu, phát sinh từ hoạt động buôn bán hoặc những khoản cho vay trung – dài hạn vì lý do chính trị, thương mại. Mục đích của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là hạn chế rủi ro cho các nhà xuất khẩu. Mô hình tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại các nước có khác nhau, tùy thuộc vai trò của Nhà nước.

Mặc dù đủ các điều kiện được các ngân hàng cho vay nhưng nhiều doanh nghiệp còn lo ngại khi xuất khẩu sang các thị trường biến động, dễ gặp rủi ro. Do vậy, vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng được xác định là để thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Cụ thể là đối với doanh nghiệp: bảo vệ tài chính cho nhà xuất khẩu; tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và phát triển kỹ năng tài chính cho nhà xuất khẩu. Đối với quốc gia xuất khẩu: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán và tạo công việc làm cho người lao động.

Có hai loại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có Nhà nước bảo trợ và thương mại. Cơ quan bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được Nhà nước bảo trợ (ECA) có phạm vi hoạt động ở tầm quốc gia và mang tính bổ trợ. Nhà nước chỉ bảo hiểm khi các công ty bảo hiểm với trách nhiệm của mình không thể hoặc không muốn cấp loại bảo hiểm đó.

1.2.2.3. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái

Thương mại, đầu tư và các quan hệ tài chính quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải trao đổi, hợp tác với nhau, việc thanh toán quốc tế đưa các quốc gia vượt ra khỏi phạm vi biên giới và đồng tiền của nước mình. Hai đồng tiền được trao đổi với nhau theo tỷ lệ nhất định, từ đó khái niệm tỷ giá hối đoái được đưa ra: “Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác”.

Tỷ giá cũng tác động đến xuất nhập khẩu thông qua tương tác quan hệ cung cầu về hàng hoá, dịch vụ xuất nhập khẩu với tỷ giá trên thị trường. Trước hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả của hàng hoá, dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá hối đoái thay đổi theo hướng làm giảm sức mua của đồng nội tệ thì giá cả hàng hoá nước đó sẽ rẻ tương đối so với hàng hoá dịch vụ của nước ngoài ở thị trường trong nước và quốc tế. Hàng hoá và dịch vụ nước đó sẽ có khả năng cạnh tranh tốt hơn dẫn đến xuất khẩu tăng, nhập khẩu hàng hoá giảm, cán cân thương mại có thặng dư. Kết quả sẽ ngược lại khi tỷ giá hối đoái biến động theo hướng làm tăng giá đồng nội tệ. Sự tăng giá của đồng nội tệ có tác dụng làm tăng giá tương đối của hàng hoá, dịch vụ một nước so với nước ngoài sẽ dẫn đến làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu và cán cân thương mại bị thâm hụt.

Tỷ giá hối đoái được coi là một công cụ hữu hiệu, tác động nhanh chóng dến hoạt động xuất nhập khẩu và cải thiện cán cân thương mại. Hiệu quả của hoạt động xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào tỷ giá hối đoái bởi giá trị lượng ngoại tệ thu về từ các hoạt động đó phụ thuộc vào quan hệ so sánh giữa những đồng ngoại tệ này với đồng nội tệ hoặc ngoại tệ khác.

Cơ chế tỷ giá hối đoái cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu của một quốc gia. Trong cơ chế tỷ giá hối đoái thiên về cố định thì tỷ giá ổn định sẽ giảm thiểu được những rủi ro từ giá cả trên thị trường hàng hoá dịch vụ và do đó góp phần duy trì được trạng thái cân bằng tương đối trong cán cân thương mại thông qua việc ổn định xuất nhập khẩu. Cơ chế tỷ giá cố định cũng sẽ không cho phép một quốc gia thông qua cơ chế tỷ giá để làm tăng lợi ích từ thương mại quốc tế. Tuy nhiên, sự duy trì tỷ giá cố định tuyệt đối cũng đi kèm với sự cứng nhắc, mất đi cơ hội tăng trưởng nhanh. Trái ngược với cơ chế tỷ giá hối đoái cố định là tỷ giá hối đoái thả nổi, biểu hiện ở sự biến đổi thường xuyên của tỷ giá làm gia tăng rủi ro về giá cả đối với các hoạt động xuất khẩu.

Để kết hợp được ưu điểm cũng như khắc phục bớt nhược điểm của hai cơ chế trên, đa số các quốc gia đã và đang áp dụng cơ chế tỷ giá linh hoạt, được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường nhưng có sự điều tiết của nhà nước, từ đó mang đến những lợi ích cho ngoại thương nói riêng và kinh tế một nước nói chung.

1.2.3. Vai trò của các chính sách hỗ trợ tài chính trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu của DNNVV

Để hỗ trợ các DNNVV tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất, tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, các công cụ hỗ trợ thường được sử dụng như: công cụ hành chính, pháp luật, công cụ kinh tế, công cụ tài chính, trong đó công cụ tài chính được xem là công cụ hiệu quả và linh động hơn cả. Các biện pháp tài chính đặc biệt là chính sách thuế, tín dụng, chính sách đầu tư, tài trợ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng, có ý nghĩa tích cực trong việc hỗ trợ xuất khẩu cho các DNNVV, cụ thể là:

1.2.3.1. Kích thích thúc đẩy các tầng lớp dân cư bỏ vốn đầu tư trực tiếp thành lập doanh nghiệp mới tham gia thị trường xuất khẩu hoặc mở rộng quy mô xuất khẩu của các DNNVV hiện có

Bằng chính sách ưu đãi thuế đối với các DNNVV, doanh nghiệp mới thành lập, Nhà nước đã kích thích các tầng lớp dân cư bỏ vốn thành lập doanh nghiệp mới, tăng cường đầu tư, sản xuất hàng xuất khẩu. Các giải pháp về thuế thúc đẩy xuất khẩu còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đặc biệt là sức cạnh tranh về giá cả.

Bên cạnh đó chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách đầu tư, tài trợ như cho vay, góp vốn thành lập doanh nghiệp đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các DNNVV. Các nghiệp vụ tín dụng được áp dụng rộng rãi đã giúp cho các nhà xuất khẩu, các DNNVV đẩy nhanh quá trình quay vòng vốn, giúp họ có nguồn vốn tiếp tục kinh doanh, mở rộng sản xuất. Biện pháp bảo lãnh tín dụng cũng góp phần thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Công cụ tín dụng này không chỉ giúp cho DNNVV mở rộng vốn kinh doanh, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, chủ động hơn về vốn trong sản xuất kinh doanh mà còn giúp doanh nghiệp có nguồn đầu vào ổn định, phong phú hơn, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Bên cạnh đó, nghiệp vụ bảo lãnh xuất khẩu cũng góp phần nâng cao uy tín của các doanh nghiệp trong xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV tự tin kí kết các hợp đồng giá trị lớn, mang lại hiệu quả không nhỏ cho bản thân doanh nghiệp và nền kinh tế.

Đối với các DNNVV đang hoạt động, các biện pháp tài chính hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách miễn giảm thuế, hoàn thuế thu nhập nếu doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư, chính sách tín dụng ưu đãi, bảo lãnh tín dụng cũng giúp các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, xuất khẩu.

1.2.3.2. Góp phần tăng khả năng tự tích luỹ và huy động vốn từ bên ngoài, giúp DNNVV tăng cường năng lực tài chính để phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường xuất khẩu

Trở ngại lớn nhất của các DNNVV hiện nay là quy mô vốn hạn hẹp, từ đó hạn chế việc đầu tư máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến đảm bảo yêu cầu sản xuất hàng hóa chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường nước ngoài, đặc biệt là những thị trường nhập khẩu khó tính như EU, Nhật Bản, Mỹ... Bằng các chính sách tín dụng ưu đãi, Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ đã giúp DNNVV mở rộng vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Việc Nhà nước cho vay vốn với lãi suất thấp trên thực tế là đã thực hiện một khoản trợ cấp tài chính cho DNNVV. Mặt khác cho vay vốn với lãi suất thấp được xem như một cách giảm chi phí đầu tư, nâng cao khả năng thu lợi nhuận, khả năng tự tích luỹ của doanh nghiệp. Với nguồn vốn ưu đãi này, DNNVV có điều kiện đầu tư công nghệ, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, đào tạo lao động, tham gia các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, hội chợ triển lãm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế.

Một biện pháp tài chính không kém phần quan trọng trong việc hỗ trợ xuất khẩu của các DNNVV hiện nay là nghiệp vụ cho thuê tài chính. Công cụ này rất có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu do nó có thể giải quyết vấn đề thiếu hụt về vốn, một vấn đề luôn được xem là trợ ngại lớn nhất của DNNVV đối với nhu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao tính linh hoạt trong hoạt động xuất khẩu.

Để thực hiện hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp phải sử dụng vốn chủ sở hữu đồng thời phải huy động nguồn vốn từ bên ngoài. Nhưng đối với các DNNVV, khả năng vay vốn từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng rất hạn chế. Một mặt, do vốn chủ sở hữu của các DNNVV thường rất nhỏ, hơn nữa các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng rất nghi ngờ về khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này. Mặt khác, một trong những điều kiện bắt buộc để vay vốn là phải có tài sản thế chấp, trong khi đó phần lớn các DNNVV không có tài sản thế chấp. Khắc phục những khó khăn đó đồng thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bổ sung khả năng vay vốn cho DNNVV, Chính phủ nhiều nước đã thực hiện hình thức bảo đảm tín dụng cho DNNVV. Theo hình thức này, Chính phủ đứng ra thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Quỹ hoạt động với tư cách là một tổ chức tài chính của Nhà nước. Nguồn vốn hình thành quỹ này là từ vốn ngân sách của Chính phủ và nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính. Quỹ bảo đảm tín dụng ra đời góp phần khơi

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí