- Hướng vào luận giải vấn đề PTKTDL gắn với ĐBANMT và đưa ra khái niệm liên quan từ nhu cầu thực tiễn và góc độ nghiên cứu khác nhau, như: Khái niệm du lịch; khái quát về KTDL, sản phẩm du lịch, thị trường du lịch, vai trò của KTDL, quy hoạch xây dựng khu du lịch, ĐBANMT,…Một số công trình đã chỉ ra chức năng và vai trò của môi trường đối với sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật; mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong phát triển và chỉ ra mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên trong phát triển. Từ đó, các công trình có rằng để giải quyết mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên trong phát triển thì nhất thiết phải gắn PTKT với BVMT hay nói cách khác là phải phát triển hài hòa kinh tế và môi trường.
- Chỉ ra những cơ sở hình thành sự PTKTDL gắn với ĐBANMT như: Tác động của du lịch đến môi trường; vai trò của nhà nước hiện đại đối với việc BVMT; sự nhận thức của nhà nước và cư dân, hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước trong khai thác, sử dụng tài nguyên; những vấn đề liên quan giữa khan hiếm tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường và những nội dung cơ bản của quản lý môi trường phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và xu hướng biến đổi môi trường toàn cầu; Xu hướng phát triển bền vững; ...
- Nêu ra những hình thức thể hiện sự PTKTDL gắn với ĐBANMT: PTDL phù hợp với quy hoạch chiến lược đề ra; Kết hợp khai thác, sử dụng tài nguyên, môi trường và PTBV; Bảo đảm chia sẻ lợi ích kinh tế một cách công bằng cho cộng đồng dân cư và sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch; Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương, thường xuyên tham khảo ý kiến cộng đồng địa phương, nâng cao nhận thức cộng đồng về BVMT trong PTDL; Chỉ ra phát triển DLST - xu hướng tất yếu để BVMT.
- Một số công trình nghiên cứu thực tiễn PTKTDL gắn với ĐBANMT ở một số nước và địa phương đã chỉ ra rằng, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại, các quốc gia đang phát triển phải chịu áp lực lớn trong PTDL về ONMT, suy giảm dạng sinh học, sức chứa điểm đến…Từ đó, các công trình đã đưa ra khuyến nghị, cần PTDL xanh, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên,……
- Một số công trình đưa ra giải pháp nhằm PTKTDL gắn với ĐBANMT, như: Nâng cao ý thức, trách nhiệm BVMT; Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách BVMT; PTDL phù hợp với quy hoạch chiến lược phát triển KT- XH; Bảo vệ và khai thác hợp lý môi trường tự nhiên; Chú trọng công tác bảo tồn đa dạng sinh học và BVMT; Hài hòa giữa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường; Phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trường: DLST, Du lịch bền vững, Du lịch thiên nhiên, Du lịch văn hóa, Du lịch khám phá; Đảm bảo việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương; Nâng cao vai trò quản lý giám sát của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương đối với các khu du lịch; Thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân đối với du lịch xanh.
Những nghiên cứu này là gợi ý cho luận án khi đề xuất các giải pháp PTKTDL gắn với ĐBANMT ở địa bàn cấp tỉnh.
Riêng về Ninh Bình, gần đây đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến PTKTDL gắn với ĐBANMT, như bài: Ninh Bình phát triển bền vững mô hình du lịch cộng đồng [77]; mô hình khách sạn xanh [46], mô hình kiến trúc xanh thân thiện môi trường ... Từ đó đề xuất một số giải pháp để ngành du lịch của Ninh Bình phát triển, như sự thích ứng với BĐKH trong hoạt động du lịch, như: Kiến trúc xanh, thân thiên môi trường; phát triển mô hình du lịch cộng đồng, du lịch thân thiên với môi trường, DLST,… Những vấn đề thực tiễn trên là những gợi ý quý giá để luận án nghiên cứu về PTKTDL gắn với ĐBANMT ở Ninh Bình.
Như vậy, các công trình tiếp cận dưới những góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn PTKTDL gắn với ĐBANMT. Những công trình nêu trên là nguồn tài liệu ban đầu vô cùng quý giá, giúp gợi mở cho nghiên cứu sinh định hướng được mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án. Tuy nhiên, các công trình này mới chủ yếu được trình bày dưới góc độ các lát cắt hoặc nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành kinh tế môi trường, kinh tế phát triển ....., vẫn còn “khoảng trống” trong một số vấn đề về PTKTDL gắn với ĐBANMT dưới góc độ kinh tế chính trị cụ thể như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình - 2
- Những Công Trình Nghiên Cứu Thực Tiễn Về Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Gắn Với Đảm Bảo An Ninh Môi Trường
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Gắn Với Đảm Bảo An Ninh Môi Trường
- Phát triển kinh tế du lịch gắn với đảm bảo an ninh môi trường ở tỉnh Ninh Bình - 6
- Cơ Sở Lý Luận Về Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Gắn Với Đảm Bảo An Ninh Môi Trường
- Nội Dung Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Gắn Với Đảm Bảo An Ninh Môi Trường
Xem toàn bộ 183 trang tài liệu này.
- Về mặt lý luận: Chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về mặt lý luận PTKTDL gắn với ĐBANMT ở một địa bàn cấp tỉnh.
- Về mặt thực tiễn: Cho đến nay, còn ít công trình nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua. Việc tìm tòi, đề xuất các giải pháp chủ yếu PTKTDL gắn với ĐBANMT còn dư địa lớn. Vì vậy, đề tài luận án mà nghiên cứu sinh lựa chọn là cần thiết và không trùng lặp với các công trình, luận án đã công bố.
1.2.2. Những “khoảng trống” cần tiếp tục nghiên cứu
Để góp phần lấp đầy “khoảng trống” trên và đẩy mạnh PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới, nghiên cứu sinh sẽ tập trung vào nghiên cứu các vấn đề sau:
- Về mặt lý luận: Luận án xây dựng khung lý thuyết về PTKTDL gắn với
ĐBANMT, tập trung vào làm rõ lý luận:
+ Khái niệm và sự cần thiết PTKTDL gắn với ĐBANMT.
+ Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến PTKTDL gắn với ĐBANMT
- Về thực tiễn:
+ Luận án nghiên cứu kinh nghiệm PTKTDL gắn với ĐBANMT của một số nước và các địa phương có điều kiện tương đồng với tỉnh Ninh Bình, từ đó rút ra bài học cho PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình;
+ Luận án phân tích, đánh giá thực trạng PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019. Rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân hạn chế, làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp toàn diện, hệ thống và có tính khả thi về PTKTDL gắn với ĐBANMT ở tỉnh Ninh Bình định hướng đến năm 2030.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH GẮN VỚI ĐẢM BẢO AN NINH MÔI TRƯỜNG
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH VÀ ĐẢM BẢO AN NINH MÔI TRƯỜNG
2.1.1. Về du lịch và phát triển kinh tế du lịch
2.1.1.1. Du lịch
* Khái niệm về du lịch: Tại Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 của Việt Nam nêu quan niệm: “Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp trong một khoảng thời gian pháp khác” [87, tr.6]. Hay:
Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiều và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó đem lại lợi ích kinh tế chính trị-xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp [40, tr.19-20].
Du lịch được xem là tổng thể những hiện tượng và những mối quan hệ kinh tế phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch. Du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa, xã hội.
Hoạt động du lịch đòi hỏi phải có dịch vụ du lịch:
* Dịch vụ du lịch là một bộ phận của KTDL. Dịch vụ du lịch là hoạt động trong đó các đơn vị kinh doanh du lịch cung ứng nhằm thu hút và phục vụ du khách theo mức giá, mức chi phí sản xuất và các biến số kinh tế khác trong một
thời gian nhất định. Có thể hiểu, dịch vụ du lịch là “việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” [86, tr.10].
* Đặc điểm của dịch vụ du lịch: Dịch vụ du lịch vừa có những đặc điểm chung mang tính chất truyền thống của dịch vụ như: không hiện hữu, không tồn tại dưới dạng vật thể; có tính không đồng nhất; sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời; không thể di chuyển và tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Đồng thời có tính đặc thù thể hiện như sau: Tính phi vật thể. Với đặc điểm này du khách không thể sử dụng thử trước khi trực tiếp tiêu dùng dịch vụ du lịch. Do đó, khi du khách chưa tiêu dùng dịch vụ du lịch thì nó vẫn là trừu tượng và khó đánh giá dịch vụ. Điều này đòi hỏi nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho du khách, đặc biệt phải nhấn mạnh được lợi ích của dịch vụ đối với du khách để họ thấy hài lòng và quyết định mua dịch vụ của mình. Bên cạnh đó, công tác quảng bá du lịch phải có nhiều nội dung chương trình, phương pháp, phương tiện quảng bá rộng rãi đến du khách để họ có thể định hình trước được những dịch vụ mà nhà cung ứng có để họ sẽ quyết định tiêu dùng những dịch vụ nào mà họ mong muốn; Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch. Với dịch vụ du lịch thì việc sản xuất và tiêu dùng thường trùng nhau về “không gian” và “thời gian”; dịch vụ du lịch không thể để lưu kho hay cất đi như các hàng hoá thông thường. Chẳng hạn, đối với các khu du lịch vùng ven biển vào mùa đông, số lượng phòng bỏ trống thường rất lớn, nhưng họ cũng không thể để dành phòng nghỉ đến lúc cao điểm vào mùa hè được. Chính đặc điểm này dẫn đến tình trạng cung cầu về dịch vụ mất cân đối, gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút vào mùa cao điểm. Để khắc phục tình trạng trên, các doanh nghiệp thường có các chương trình khuyến mại đối với khách đi nghỉ trái vụ khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lý tốt chất lượng dịch vụ khi cầu cao điểm; Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ. Đặc tính này cho thấy, ở một chừng mức nào đó du khách đã trở thành nội dung của quá trình sản xuất. Do tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch, nên ở đó khách hàng và người sản xuất gặp gỡ nhau. Giữa hai chủ thể này có sự gắn liền và phụ
thuộc lẫn nhau trong việc cung cấp và tiêu dùng dịch vụ. Do người tiêu dùng dịch vụ (khách du lịch) có sự đa dạng về yêu cầu, sở thích, trình độ cũng như khả năng cảm nhận và đánh giá của họ mà nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần sáng tạo trong quá trình sản xuất của mình để thoả mãn nhu cầu của du khách. Mức độ hài lòng của của du khách phụ thuộc nhiều vào khả năng, trình độ, nghệ thuật ứng xử của người làm dịch vụ. Ở đây, người tiêu dùng không chỉ là người hưởng thụ những lợi ích do nhà cung ứng dịch vụ mang lại mà sự hợp tác cùng với những phản hồi của họ có tác động đến khả năng phục vụ và mức độ hoàn thiện của dịch vụ; họ trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ du lịch; Tính không thể di chuyển: Do cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên nó không thể dịch chuyển được. Thực tế cho thấy, nhà cung ứng dịch vụ không thể cung cấp dịch vụ du lịch của mình đến tận tay du khách được mà du khách muốn tiêu dùng dịch vụ phải đến các cơ sở du lịch. Vì vậy, các nhà kinh doanh du lịch muốn thu hút du khách, cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến, quảng bá du lịch. Đây là một trong những nội dung hết sức quan trọng để PTKTDL; Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Khác với việc mua sản phẩm vật chất, người mua có quyền sở hữu đối với sản phẩm đó. Nhưng với dịch vụ du lịch thì không phải như vậy. Khi du khách mua dịch vụ du lịch thì sự tiêu dùng dịch vụ của họ song song với quá trình sản xuất của nhà cung ứng; do vậy, khách hàng chỉ đang mua quyền hưởng thụ dịch vụ do nhà cung ứng mang lại chứ không thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó của nhà cung ứng dịch vụ du lịch; Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch. Khác với các hoạt động dịch vụ khoa học - công nghệ, dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống nhằm thoả mãn nhu cầu cho tất cả mọi người trong toàn xã hội. Dịch vụ du lịch là một loại hình dịch vụ đời sống thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch như: nhu cầu ăn, ở, nghỉ ngơi, tham quan, vui chơi giải trí, tìm hiểu lịch sử, văn hoá và các nhu cầu khác. Mặt khác, do khách hàng rất muốn được chăm sóc như những con người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất. Với đặc tính này của du khách, doanh nghiệp du lịch rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ nhằm thoả mãn tất cả các khách hàng trong mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn ấy phụ thuộc vào sự cảm
nhận của du khách; Tính không đồng đều về sản lượng. Do tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch nên sản lượng dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu của du khách. Mặt khác, nhu cầu của khách du lịch rất phong phú, đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời tiết, tình hình chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh, thiên tai, dịch bệnh, v.v... Kết quả dẫn đến sự thay đổi về số lượng khách du lịch và sản lượng dịch vụ du lịch theo từng ngày trong tuần, từng tuần trong tháng, từng tháng trong năm và giữa năm này so với năm khác.
* Các loại hình du lịch cơ bản
Du lịch là một hoạt động có tính đa dạng và phong phú về loại hình và thể loại. Cùng với sự phát triển ngày càng cao về nhu cầu của con người dẫn đến sự xuất hiện nhiều loại hình du lịch.
Theo Điều 3, Luật Du lịch năm 2017, có ba loại hình du lịch cơ bản sau
đây [87, tr.8]:
. Du lịch cộng đồng: Là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi.
. Du lịch sinh thái: Là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa địa phương, có sự tham gia của cộng đồng dân cư, kết hợp giáo dục về BVMT.
. Du lịch văn hóa: Là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa mới của nhân loại.
Từ 3 loại hình du lịch cơ bản có nhiều dạng hình du lịch tiêu biểu tại Việt Nam hiện nay, đó là:
. Du lịch tham quan: Du lịch tham quan di tích lịch sử, thắng cảnh. Đây là hình thức du lịch truyền thống ở Việt Nam.
. Du lịch văn hóa: Du lịch lễ hội, du lịch hoa.
. Du lịch ẩm thực: Những bữa tiệc cung đình Huế hay ẩm thực Bắc Trung Nam, ...
. Du lịch xanh: Gần đây du lịch hướng về thiên nhiên trở thành một xu hướng không chỉ ở Việt Nam mà còn cả trên thế giới. Hình thức du lịch này gần gũi, đồng thời có thể phát huy hết vai trò của yếu tố thiên nhiên, lợi thế tự nhiên của một quốc gia. Bao gồm: DLST, du lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh.
. Du lịch MICE: Loại hình du lịch này theo dạng, gặp gỡ xúc tiến, hội nghị, hội thảo, du lịch chuyên đề ... Đây là dạng hình du lịch tập thể dành cho các công ty, doanh nghiệp.
. Team building, Teambuiding tour: Kết hợp du lịch tham quan, nghỉ dưỡng với chương trình Team nhằm xây dựng, tăng cường tinh thần đoàn kết, tập thể.
Đây là các hình thức du lịch phân theo mục đích di chuyển.
2.1.1.2. Phát triển kinh tế du lịch
* Kinh tế du lịch
- Khái niệm kinh tế du lịch
Cho đến nay, đã có một số quan niệm khác nhau về KTDL tùy theo cách tiếp cận, song có điểm chung: KTDL là một loại hình kinh tế có tính đặc thù riêng biệt của dịch vụ. Đây là hoạt động kinh tế có vai trò khai thác các tài nguyên sẵn có của thiên nhiên nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước tới thăm quan. KTDL là một hệ thống phức hợp những quan hệ và hoạt động kinh tế của các chủ thể tham gia trong quá trình tổ chức sản xuất, cung ứng và tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ du lịch, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, xã hội cho các bên tham gia và tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. KTDL là ngành công nghiệp không khói, ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những giá trị vật chất và tinh thần rất cao.
Từ đó, tác giả luận án cho rằng: Kinh tế du lịch là một hệ thống quan hệ kinh tế trong lĩnh vực cung ứng và tiêu dùng sản phẩm du lịch, bao gồm: các quan hệ ngành, nghề là: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận tải khách du lịch và kinh doanh dịch vụ du lịch khác, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách, đem lại lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh nghiệp du lịch.